Đi Sim - tục cũ, ý nghĩa mới
Chị Hồ Thị Sáu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Thông tin huyện Đakrông (Quảng Trị) đón chúng tôi bằng nụ cười hồn hậu: Bây giờ đường sá đi lại thuận tiện, chỉ vài tiếng đồng hồ là có thể từ thị xã Đông Hà lên đến Đakrông. Còn ngày xưa “của chị” thì phải mất cả ngày đường. “Ngày xưa” của chị Sáu đã là quá khứ, từ thuở đồng bào Pa Cô (nhóm địa phương của dân tộc Tà Ôi), Bru Vân Kiều còn sinh sống tách biệt trong rừng sâu, còn tính tuổi theo mùa rẫy, lấy lá rừng làm khố, làm chăn…
Đakrông nay đã đổi thay, huyện có 13 xã, thị trấn với hơn 34.000 dân, trong đó người Pa Kô và Bru Vân Kiều chiếm phần lớn, sinh sống trên diện tích hơn 1.233km2, gần như bao bọc cả một dải Tây Nam của tỉnh Quảng Trị. Chị Sáu giới thiệu, người Pa Kô và Bru Vân Kiều theo tô tem giáo - một thứ tôn giáo còn nguyên thủy với niềm tin rằng mỗi con người hay mỗi dòng họ có một mối liên kết tâm linh chặt chẽ với các vật thể khác như cây cối, động vật. Chính vì thế trong cách đặt họ của người Pa Kô và Bru Vân Kiều hay gắn với những cái tên như: Arâl, Târnau, Kê, Pata, Plo, Prung… theo hệ ngôn ngữ Môn - Khmer.
Giữa đại ngàn Trường Sơn, đời sống vật chất của người Pa Kô, Bru Vân Kiều đã được nâng lên rõ rệt, giao lưu với bên ngoài cởi mở, nhưng bà con vẫn gìn giữ được những giá trị văn hóa đặc trưng. Người Pa Kô, Bru Vân Kiều vốn có nền văn hóa, văn nghệ dân gian rất phong phú với nhiều làn điệu dân ca mang bản sắc riêng và nhiều lễ hội độc đáo. Một năm, người Pa Kô, Bru Vân Kiều ở Đakrông có đến 7 lễ hội chính: Lễ hội mừng lúa mới, lễ hội cồng chiêng, lễ hội đâm trâu, lễ hội A riêu Ping (lễ cải táng cho người chết), lễ hội AdaPựt (tết cổ truyền của người Pa Kô), lễ hội uống rượu thề…
Người Bru Vân Kiều ở Đakrông vẫn lưu truyền một phong tục cũ, gọi là đi Sim. Tục rằng, thanh niên nam nữ khi đến tuổi cập kê thường chọn mùa trăng để hẹn hò bên những bờ sông, con suối, trao cho nhau những điệu Xà Nớt ngọt ngào. Khi đã phải lòng thì cất lên tiếng hát Tà Oải đầy tình tứ. Gia vị tình yêu trong những lần hò hẹn ấy chính là những khúc hát giao duyên. Những đêm Sim lãng mạn, trữ tình, giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ đã trở thành một nét đẹp văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Bru Vân Kiều.
Ngày nay đi Sim không còn giới hạn trong đời sống hôn nhân, hò hẹn của riêng từng đôi trai gái, mà đi Sim còn để giao lưu, hát múa, gặp gỡ bạn bè, để cùng xích lại gần nhau, xây dựng cộng đồng bền chặt, xây dựng quê hương đẹp giàu…
Rừng xanh vang tiếng Ta lư
Chúng tôi về xã Tà Rụt, một xã nằm phía Nam của huyện Đakrông, cách trung tâm huyện hơn 40 cây số. Ông Kray Sức, Nghệ nhân Ưu tú, kiêm cán bộ văn hóa của xã Tà Rụt, đúng là một pho sách sống về đặc trưng văn hóa của người Pa Kô, Bru Vân Kiều. Ông Sức là người Pa Kô, nhưng rất hiểu và phân biệt rạch ròi giọng nói, những nét văn hóa của người Pa Cô so với Bru Vân Kiều. 15 năm nay, Nghệ nhân Ưu tú Kray Sức đã sưu tầm, ghi chép, biên soạn được 25 kịch bản múa cồng chiêng, nghi thức lễ hội, phong tục, tập quán, các làn điệu dân ca của người Pa Kô. Ông còn cải biên, viết lời mới cho các làn điệu dân ca, phản ánh những đổi thay trong cuộc sống của người Pa Kô. Cùng với các nghệ nhân khác ở địa phương, ông còn truyền dạy cho hơn 40 người, chủ yếu là thanh niên, học sinh trong xã và các xã lân cận đánh cồng chiêng, đánh đàn, thổi kèn và tập các làn điệu dân ca… Ông nói: Chỉ mong truyền thống của ông cha không bị mai một.
Ở Đakrông, thông thường mỗi khi có dịp lễ hội, tất cả mọi người từ già, trẻ, gái, trai đều cùng tham gia múa hát trên nền nhạc của tất cả các loại nhạc cụ như trống, chiêng, sáo và đặc biệt không thể thiếu đàn Ta lư - loại nhạc cụ riêng có của người Pa Kô, Bru Vân Kiều. Đàn Ta lư có 2 dây, dành riêng cho nam giới, có tiết âm thanh vừa da diết vừa sôi nổi, có thể kết hợp hài hòa với các loại nhạc cụ khác.
Anh Hồ Văn Việt, một tay chơi Ta lư có tiếng, cho biết: Đàn Ta lư có từ hàng trăm năm trước, gắn bó với cuộc sống tinh thần của người Pa Kô và Bru Vân Kiều. Đàn nhỏ gọn nên mỗi khi lên rẫy bà con thường bỏ gùi mang đi. Hai nhạc sĩ Huy Thục và Phương Nam đã không cầm lòng được trước tiếng Ta lư mà viết nên “Tiếng đàn Ta lư” và “Rừng xanh vang tiếng Ta lư”, những ca khúc vượt thời gian.
Ta lư bây giờ được cải tiến to hơn, đẹp hơn, làm bằng gỗ thay thế cho tre, nứa, nhưng âm thanh của nó thì vẫn cứ mê ly. “Làm ra một cây đàn Ta lư mất khá nhiều thời gian, phải tỷ mẩn từng đường nét, đặc biệt là tiếng đàn, phải là tiếng “của ngày xưa”. Mỗi tháng chăm lắm cũng chỉ làm được khoảng 3 - 4 cây. Tôi làm đàn không phải để bán, mà làm vì sự lo lắng, sợ lớp trẻ nhạt phai mất tiếng của ông cha. Tiếng đàn Ta lư là hồn thiêng của người xưa vọng lại, tiếng của người Pa Kô, Bru Vân Kiều, nó phải mãi vọng vang”, anh Việt tâm sự.
Chúng tôi rời Đakrông trong lòng cứ mãi điệp khúc: “Đàn em reo ca ơi đàn Ta lư. Rừng núi quê ta tưng bừng reo ca…”.