Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Giải phóng nguồn lực đất đai cho đồng bào DTTS: Đã sắp xếp nhưng chưa đổi mới (Bài 1)

Tùng Nguyên - 11:47, 01/10/2022

LTS: Các nông, lâm trường quốc doanh (nay là các công ty nông, lâm nghiệp) đang quản lý hàng triệu ha đất, nhưng hiệu quả sử dụng đất không cao. Trong khi đó, mục tiêu giải quyết đất sản xuất cho đồng bào DTTS đã triển khai hàng chục năm nay nhưng vẫn không thể thực hiện triệt để do thiếu quỹ đất. Giải phóng nguồn lực đất đai từ các nông, lâm trường quốc doanh sẽ là lời giải để thực hiện mục tiêu hỗ trợ đất sản xuất cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Sau nhiều năm thực hiện sắp xếp, đổi mới, các nông, lâm trường quốc doanh (NLTQD) không chỉ sản xuất kinh doanh “thụt lùi” mà việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đất lâm nghiệp, đất bị lấn chiếm hoặc bỏ hoang, rừng bị mất. Nguyên nhân là do việc sắp xếp, đổi mới chỉ thực hiện ở phần ngọn, chưa giải quyết gốc rễ của vấn đề.

Các công ty nông lâm nghiệp hiện vẫn quản lý diện tích đất rất lớn. (Ảnh minh họa)
Các công ty nông lâm nghiệp hiện vẫn quản lý diện tích đất rất lớn. (Ảnh minh họa)

“Thu” đầu mối, “nở” diện tích

Sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam, khi đất nước tiến hành khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều NLTQD đã được thành lập. Tính đến năm 1986, khi bắt đầu công cuộc đổi mới, cả nước có 870 NLTQD, trong đó có 457 NT, 413 LT.

Cũng như mô hình hợp tác xã ở đồng bằng, trong một thời gian dài, hoạt động của các NLTQD đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, khu vực biên giới. Tuy nhiên, hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp nên mô hình NLTQD đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.

Mẫu số chung của sự yếu kém ở các NLTQD là hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả; tình trạng nợ lương, nợ đóng bảo hiểm xã hội cho cán bộ, công nhân viên trong các NLT khá phổ biến… Đặc biệt, việc quản lý đất đai, tài nguyên rừng còn nhiều yếu kém khiến tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai giữa người dân với NLT xảy ra ở nhiều nơi, tạo ra những điểm nóng về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Trước tình hình đó, việc sắp xếp, đổi mới các NLTQD đã được triển khai theo Nghị định 388/1991/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Tính đến năm 2003 (thời điểm Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển NLTQD), cả nước còn 672 NLTQD (314 NT, 368 LT). Thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị, tính đến hết năm 2012, cả nước còn 387 NLT (gồm 145 NT, 151 LT, 91 ban quản lý rừng).

Sau Nghị quyết 28-NQ/TW, việc sắp xếp, đổi mới các NLTQD tiếp tục được thực hiện theo Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị khóa XI. Tính đến năm 2020, số lượng NLTQD trên cả nước giảm xuống còn 256 đơn vị - lúc này đã chuyển đổi thành các công ty nông, lâm nghiệp (NLN).

Do sản xuất kinh doanh thua lỗ, Lâm trường Văn Chấn (Yên Bái) sáp nhập vào Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải từ tháng 8/2018
Do sản xuất kinh doanh thua lỗ, Lâm trường Văn Chấn (Yên Bái) sáp nhập vào Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải từ tháng 8/2018

Nghịch lý là, trong quá trình thực hiện sắp xếp, đổi mới thì đầu mối NLTQD được thu gọn, nhưng diện tích đất được giao quản lý lại “nở” ra. Tại thời điểm năm 1986, Nhà nước giao 7,5 triệu ha đất, bằng 23,2% diện tích tự nhiên của cả nước cho 870 NLTQD quản lý; trong đó 457 NT quản lý 1,2 triệu ha; 413 LT quản lý 6,3 triệu ha. Đến năm 2012, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW, khi chỉ còn 387 đơn vị thì các NLTQD trên cả nước được giao quản lý gần 8 triệu ha.

Đến hết năm 2021, khi số NLTQD tiếp tục giảm xuống thì diện tích đất có nguồn gốc từ các NLTQD lại tăng lên. Số liệu tại Hội nghị triển khai Đề án tăng cường quản lý đối với đất đai có nguồn gốc từ các NLTQD do Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức ngày 25/12/2021 cho thấy, cả nước có gần 9,2 triệu ha đất có nguồn gốc từ các NLTQD.

Kinh doanh “bết bát”

Dù được giao quản lý diện tích đất lớn nhưng hoạt động sản xuất, kinh doanh của các NLTQD không hiệu quả. Cách đây 7 năm, thực trạng này đã được các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) khóa XIII chỉ rõ tại phiên giải trình về việc quản lý, sử dụng đất đai ở các NLTQD do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTHVQH) tổ chức ngày 27/8/2015. Tại nghị trường, các ĐBQH nhấn mạnh đến sự yếu kém của các NLT.

Cần tiến hành kiểm kê lại quỹ đất đai có nguồn gốc từ các NLTQD. (Ảnh minh họa)
Cần tiến hành kiểm kê lại quỹ đất đai có nguồn gốc từ các NLTQD. (Ảnh minh họa)

Đại biểu Nguyễn Tiến Sinh, Phó trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Hoà Bình (ông Sinh tiếp tục là ĐBQH khóa XIV - PV) đã nói trong nỗi xót xa: “Chúng tôi đến Công ty Mường La hiện nay không sống được mà nợ các dự án thêm vài tỷ đồng. Lâm trường Văn Chấn (Yên Bái) 10 năm nay không có Giám đốc mà có một Phó Giám đốc phụ trách, mấy năm nay họ sống lay lắt bằng tiền dịch vụ nuôi trồng rừng, 3 tháng qua chả có đồng nào trả cho người lao động. Đoàn đến giám sát chẳng biết nói gì vì có gì đâu mà nói”.

Hoạt động “bết bát” của các NLTQD được các ĐBQH nêu “thấm thía” hơn tại phiên thảo luận Báo cáo Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai tại các NLTQD giai đoạn 2004 - 2014, do UBTHVQH khóa XIII tổ chức ngày 10/11/2015. Số liệu đưa ra tại phiên thảo luận cho thấy, các NLTQD quản lý gần 8 triệu ha đất, nhưng trong 10 năm, tổng nộp ngân sách nhà nước của các NLTQD chỉ được 1.809 tỷ đồng

Từ con số này, đại biểu Cao Thị Xuân (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa, hiện là ĐBQH khóa XV, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội) tính ra bình quân mỗi ha/năm bình quân chỉ đạt 90.000 đồng, tương đương với khoảng 5kg gạo. Còn đại biểu Trần Minh Diệu (Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình) thì ví von, thu nộp ngân sách hằng năm của mỗi ha đất do các NLTQD quản lý chỉ tương đương giá trị của vài chiếc kẹo. Đây là con số mà theo đại biểu Diệu là “không thể chấp nhận được”.

Cách đây 7 năm, Báo cáo giám sát nêu rõ những yếu kém của các công ty NLN đã được nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Ksor Phước trình bày trên nghị trường. (Ảnh tư liệu)
Cách đây 7 năm, Báo cáo giám sát nêu rõ những yếu kém của các công ty NLN đã được nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Ksor Phước trình bày trên nghị trường. (Ảnh tư liệu)

Chính ông Ksor Phước, nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước lúc đó là Trưởng đoàn giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai tại các NLTQD giai đoạn 2004 – 2014, cũng nghi ngờ con số này trong Báo cáo; nhưng không có cơ sở để bác bỏ, vì số liệu là các bộ với các tỉnh cung cấp.

“Chúng tôi thật sự nghi ngờ con số đóng góp của các NLT. Tôi nói thí dụ như Gia Lai, Đắk Lắk, thu ngân sách chủ yếu là các doanh nghiệp nông lâm nghiệp, chứ công nghiệp thì có bao nhiêu đâu. Tại sao lại ít thế này? Tôi cũng đang đặt ra câu hỏi không biết con số này nó thế nào”, ông Ksor Phước đã nói như vậy.

Việc sắp xếp, đổi mới các công ty NLN tiếp tục được thực hiện trong giai đoạn 2021 – 2025. Trong Kết luận số 82 – KL/TW ngày 29/7/2020, Bộ Chính trị đặt mục tiêu đến năm 2025, 100% công ty NLN được xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, đất đai và kinh doanh có lãi, đạt được chỉ tiêu quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế.

Năm 2015 là năm bản lề thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp (tiền thân là các NTLQD). Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty NLN cũng không khả quan, là câu trả lời cho những nghi ngờ đã được các thành viên Đoàn giám sát đặt ra trước đó.

Cụ thể, trước sắp xếp, đổi mới theo Nghị quyết số 30-NQ/TW, vốn chủ sở hữu tại các công ty NLN là 24,8 nghìn tỷ đồng (bình quân 96,89 tỷ đồng/công ty), tổng doanh thu 21,98 nghìn tỷ đồng (bình quân 85,85 tỷ đồng/công ty), lợi nhuận sau thuế 3,52 nghìn tỷ đồng. Sau 5 năm sắp xếp, đổi mới, vốn chủ sở hữu tại các công ty NLN tăng lên là 27,84 nghìn tỷ đồng (bình quân 127,1 tỷ đồng/công ty); tuy nhiên, tổng doanh thu giảm còn 14,97 nghìn tỷ đồng (bình quân 68,35 tỷ đồng/công ty), lợi nhuận sau thuế giảm còn 2,27 nghìn tỷ đồng.

Những tồn tại, yếu kém của các công ty NLN đã được chỉ rõ tại Kết luận số 82-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW. Kết luận số 82-KL/TW chỉ rõ, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, hoạt động của nhiều công ty sau sắp xếp chưa có nhiều chuyển biến; hiệu quả quản lý, sử dụng đất, tài nguyên tại một số công ty còn thấp.

Kết luận số 82-KL/TW không những đánh giá những yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các NLTQD đã chuyển đổi thành các công ty NLN mà còn nêu rõ hạn chế của mô hình này trong quản lý tài nguyên, dẫn đến tình trạng mất rừng, tranh chấp đất đai kéo dài, gây tạo ra những điểm nóng về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Báo Dân tộc và Phát triển sẽ phản ánh nội dung này trong số báo tiếp theo.

Tin cùng chuyên mục
Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Hàng loạt tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, trong đó nổi cộm là địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế..., đã tạo "đất sống" cho những hủ tục, tập quán lạc hậu tồn tại. Đây chính là những thách thức lớn làm ảnh hưởng đến quá trình nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây xứ Nghệ. Thực tế, đã có nhiều giải pháp khắc phục hạn chế được đưa ra, trong đó là việc tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân.