Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng Đồng bào DTTS và Miền núi

Xin đừng "bức tử" những dòng sông

Tùng Nguyên - 16:45, 14/08/2022

Thủy lợi, thủy điện phát triển thiếu tầm nhìn dài hạn thì những tác động tiêu cực đến sự tồn vong của các dòng sông cũng liên tục phát sinh như một hệ quả tất yếu. Mặc dù đã có quy định bảo đảm giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện, nhưng việc thực thi quy định này trên thực tế rất bất cập, làm gia tăng thêm thực trạng “bức tử” các dòng sông ở nước ta.

Nhưng những năm gần đây, ĐBSCL chỉ đón “lũ thấp”, thậm chí là “mất lũ”. (Ảnh minh họa)
Những năm gần đây, ĐBSCL chỉ đón “lũ thấp”, thậm chí là “mất lũ”. (Ảnh minh họa)

Nghịch lý “đói lũ”

Theo quy luật hàng năm, cuối tháng 7, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đón lũ đầu mùa. Lũ về mang theo lượng phù sa bồi đắp thêm “vựa lúa” và thêm tôm cá cho hàng triệu người nông dân ở đất “chín rồng”.

Nhưng những năm gần đây, ĐBSCL chỉ đón “lũ thấp”, thậm chí là “mất lũ”. Theo thống kê của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây, hầu như mực nước lũ ở khu vực này đều ở mức thấp, thậm chí trong đó có 5 năm “mất lũ”, tức mực nước còn dưới 3,5m.

Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam dự báo, năm nay sẽ tiếp tục là một năm lũ thấp ở ĐBSCL. Lũ đầu vụ vào tháng 7, tháng 8 cũng sẽ không có; lũ chính vụ vào tháng 9, tháng 10, con nước cũng không cao.

Số liệu cập nhật tình hình thủy văn của Tổng cục Phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), càng khẳng định tính khoa học của dự báo này. Cụ thể, tại thời điểm sáng ngày 4/8/2022, mực nước trên sông Mê Kông tại Kratie (Campuchia) là 13,50m, thấp hơn 0,13m so với ngày 3/8. Mực nước cao nhất trên sông Tiền tại Tân Châu là 1,83m; trên sông Hậu tại Châu Đốc là 1,85m; mực nước tại Tân Châu là 0,99m, tại Châu Đốc là 0,83m.

Tổng cục Phòng chống thiên tại dự báo, mực nước đầu nguồn sông Cửu Long tiếp tục xuống theo triều. Đến ngày 6/8/2022, mực nước cao nhất ngày tại Tân Châu ở mức 1,70m; tại Châu Đốc ở mức 1,70m.

Trong khi hệ thống sông Cửu Long lũ thấp, thì hệ thống sông Hồng cũng đang lâm vào tình trạng “đói lũ” trong một thời gian dài. Một thống kê của Hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam cho thấy, đợt lũ lớn nhất trên sông Hồng đổ về đồng bằng đã xảy ra từ năm 1996, và từ đó trở lại đây không thấy xuất hiện đợt lũ lớn như thế nữa.

Theo ông Hoàng Văn Thắng, Chủ tịch Hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam, mực nước sông đã hạ ở mức trên dưới 2m so với trước đây. Điều này khiến các con sông như sông Đáy, sông Tích, sông Nhuệ, sông Bắc Hưng Hải… không nhận được nước sông Hồng như trước.

“Đói lũ” từ nhiều năm qua, bãi bồi sông Hồng qua Hà Nội “phình” ra khi dòng chảy sông Hồng có nguy cơ thu hẹp có phải là một trong những cơ sở của Đề án phát triển bãi giữa, bãi ven sông Hồng thành công viên văn hóa, du lịch của Thủ đô?
“Đói lũ” từ nhiều năm qua, bãi bồi sông Hồng qua Hà Nội “phình” ra khi dòng chảy sông Hồng có nguy cơ thu hẹp lại

Trong khi đó, theo nhận định của Đài Khí tượng thủy văn khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, tháng 7, tháng 8, là thời gian chính vụ của mùa lũ trên hệ thống sông, suối tại khu vực Bắc Bộ; mực nước trên sông chính có thể lên tới 4,0m. Tuy nhiên, theo báo cáo nhanh của Tổng cục Phòng chống thiên tai, tại thời điểm sáng 4/8/2022, mực nước trên sông Hồng tại trạm Hà Nội là 2,10m trên sông Thái Bình tại trạm Phả Lại là 0,86m.

Cơ quan này dự báo, mực nước trên sông Hồng tiếp tục hạ xuống. Đến sáng 5/8 mực nước tại trạm Hà Nội có khả năng ở mức 2,00m; mực nước tại trạm Phả Lại có khả năng ở mức 0,70m.

Với những ai quan tâm đến sự tồn vong của các dòng sông, thì tình trạng “đói lũ” trên hai hệ thống sông lớn nhất của nước ta nêu trên, là nguy cơ hiện hữu về an ninh nguồn nước Quốc gia. Trong tương lai không xa, nếu không có chiến lược vẹn toàn, sinh kế của hàng triệu người dân sẽ biến mất, đe dọa trực tiếp đến sự phát triển bền vững của đất nước.

Đừng “bức tử” các dòng sông

Theo ông Hoàng Văn Thắng, Chủ tịch Hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam, chỉ với việc hệ thống sông Hồng “đói lũ” nhiều năm nay, đã khiến hệ thống thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cho 500.000ha ở Đồng bằng sông Hồng gần như tê liệt. Tình trạng này cũng góp phần làm tăng ô nhiễm môi trường nước, ảnh hưởng đến an toàn đê…; Mực nước hạ thấp sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm mặn, nước mặn sẽ vào sâu hơn.

Còn theo TS. Đào Trọng Tứ, Trưởng ban điều hành Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (nguyên Phó Tổng thư ký Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam), việc có lũ cũng sẽ uy hiếp hệ thống đê điều, gây thiệt hại cho các vùng dân cư. Nhưng, nếu không có lũ, đồng bằng sẽ nghèo nàn phù sa, sự màu mỡ của đồng bằng hạ nguồn, rồi khả năng làm sạch tự nhiên của dòng sông cũng kém đi.

Là một trong những chuyên gia hàng đầu về sông ngòi và đập lớn của Việt Nam, TS. Đào Trọng Tứ đã từng cảnh báo tình trạng thoi thóp, vỡ vụn của những dòng sông cần phải được xem như một thông điệp không thể xem thường. Đây là một phần tất yếu từ việc phát triển thủy điện, thủy lợi thiếu tầm nhìn dài hạn.

Một khảo sát của diễn đàn Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) cho thấy, trên các hệ thống sông như: sông Hồng – sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Ba, sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Sêrêpôk, sông Sê San… đang chi chít hồ đập thủy lợi và đập thủy điện. Về thủy lợi, sông Hồng – sông Thái Bình có 29 hệ thống thủy nông, 900 hồ chứa, 1.300 đập dâng, hàng nghìn trạm bơm, hàng vạn công trình tiểu thủy nông; sông Mã có hơn 1.800 công trình thủy lợi; sông Cả cùng lưu vực phụ cận có 3.193 công trình lớn; sông Hương có 100 hồ chứa các loại;… Còn trên sông Đồng Nai - hệ thống sông lớn thứ 3 cả nước, có đến 911 công trình gồm 406 hồ chứa, 371 đập dâng và cống, 134 trạm bơm.

Về thủy điện, sông Ba có 4 công trình thủy điện (CTTĐ) lớn là An Khê – Ka Nak, Krông Hnăng. Đặc biệt, sông Vu Gia – Thu Bồn không giữ được nguyên vẹn hình hài dáng vóc do sự hình thành hàng loạt công trình thủy điện; 2 dòng sông khác ở của Quảng Nam là A Vương, sông Kôn cũng gánh chịu nhiều dựa án thủy điện như: A Vương, Sông Kôn 2, Khe Diên, Đại Đồng, Sông Cùng, Za Hung, Trà Linh 3… Còn sông Đà cũng đang “cõng” 3 công trình thủy điện lớn (Hoà Bình, Lai Châu, Sơn La).

Hạ du các dòng sông đang “chết” dần vì thủy điện thượng nguồn tích nước. (Ảnh minh họa)
Hạ du các dòng sông đang “chết” dần vì thủy điện thượng nguồn tích nước. (Ảnh minh họa)

Trong Nghị quyết số 62/2013/QH13 về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư, vận hành khai thác công trình thủy điện, Quốc hội khóa XIII đã yêu cầu đưa ra khỏi quy hoạch 424 dự án thủy điện, tạm dừng có thời hạn 136 dự án, không xem xét đưa vào quy hoạch 172 vị trí tiềm năng, tiếp tục rà soát, đánh giá 158 dự án thủy điện nhỏ. Nhưng đến nay, các thủy điện nhỏ được xây dựng vẫn có nhiều ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, miền Nam.

Tại thời điểm năm 2017, theo số liệu của Bộ Công thương, cả nước có 714 dự án thủy điện nhỏ (công suất 7.238 MW) nằm trong quy hoạch, trong đó đã vận hành khai thác 270 dự án. Đến hết năm 2020, cả nước đã xây dựng và đưa vào vận hành 330 công trình thủy điện nhỏ, với tổng công suất lắp máy là 7.666 MW

Chia sẻ trên nhiều diễn đàn, chuyên gia Đào Trọng Tứ cho rằng, rất nhiều sông, suối đang “khổ” vì thủy điện nhỏ và vừa. Ông cảnh báo, việc phát triển hệ thống thủy điện nhỏ phải hết sức thận trọng, không vì lợi ích nhỏ mà tàn phá môi trường trên diện tích lớn. Khi xây dựng các thủy điện nhỏ ở vùng sâu, vùng xa buộc các chủ đầu tư phải cắt chân các dãy núi để làm đường tới công trình, nên nguy cơ sạt lở núi rất lớn.

Mặc dù vậy, thủy điện nhỏ vẫn có tương lai tiếp tục “nở rộ” khi cấp có thẩm quyền phê duyệt Quy hoạch điện VIII đến năm 2030. Trong Quy hoạch điện VIII, cơ quan soạn thảo tiếp tục đề xuất phát triển thêm khoảng 2.700 MW thủy điện nhỏ trong 10 năm tới.

Trong khi đó, trước khi xây dựng Quy hoạch điện VIII, Kiểm toán Nhà nước đã đề nghị làm rõ các nội dung liên quan đến việc phê duyệt bổ sung, điều chỉnh một số quy hoạch phát triển thủy điện nhỏ của giai đoạn 2016-2020. Bởi Kiểm toán Nhà nước cho rằng, quy hoạch phát triển thủy điện nhỏ của giai đoạn trước, là chưa thực sự phù hợp, chưa xin ý kiến các cơ quan có liên quan, công suất điều chỉnh vượt quá quy định được phê duyệt.

Theo thống kê, cả nước có khoảng 7.800 hồ, đập lớn nhỏ với dung tích 74 tỷ mét khối nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu cực đoan như hiện nay, lũ lụt xảy ra thường xuyên với cường độ cao, tình trạng không ổn định của địa chất, hiện tượng đứt gãy dẫn tới động đất ở một số vùng cùng với 1.730 hồ, đập thủy lợi bị xuống cấp, trong đó có 1.200 hồ, đập cần sửa chữa và 200 hồ hư hỏng nặng cần sửa chữa khẩn cấp.

Tin cùng chuyên mục
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình: Rà soát, lựa chọn các dự án đầu tư có trọng tâm thúc đấy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình: Rà soát, lựa chọn các dự án đầu tư có trọng tâm thúc đấy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS

Sáng 9/11, tại Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai, Ủy ban Dân tộc phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021 - 2025 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719) khu vực miền Trung - Tây Nguyên và đề xuất nội dung Chương trình MTQG 1719 giai đoạn II từ năm 2026 - 2030.