Trong một chuyến điền dã vào đầu năm 1985, Đinh Thị Nga và người đồng nghiệp Hồ Thị Thanh Bình của mình đã chứng kiến những cổ vật “lạ lẫm” đầu tiên trong nhà mấy bác nông dân vô tình nhặt được trong lúc cuốc rẫy trồng ngô ven triền phù sa cổ. Phát hiện của hai nữ cán bộ bảo tàng Lâm Đồng đã ghi dấu mốc đầu tiên cho việc sau đó xuất lộ dần một quần thể di tích với hệ thống đền đài hoành tráng suốt gần hai mươi cây số bên bờ bắc của dòng Đồng Nai. Hơn hai mươi năm sau, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Di tích Cát Tiên là Di tích quốc gia đặc biệt.
Bắt đầu là những câu chuyện của Đinh Thị Nga, cùng với sự mê hoặc bởi những cánh rừng cổ sinh ngàn đời trong không gian của đồng bào dân tộc Mạ, X’Tiêng nuôi những con tê giác cuối cùng cho đến ngày tuyệt chủng và sự huyền bí thiêng liêng của đa tầng lịch sử trong lòng đất thượng nguồn, đã biến tôi thành con nợ cảm xúc của xứ sở này.
* * *
Gần ba mươi năm trước, lần đầu tiên đến với Cát Tiên, tôi đã bàng hoàng trước vẻ đẹp còn lắm nguyên sơ của xứ sở này. Hồi đó giao thông còn gian nan lắm. Vượt qua những đèo dốc, khi dầm mình trong thung lũng, khi xuyên giữa rừng già, khi trồi ra cùng dòng Đồng Nai. Một vùng đất chứa trong mình thẳm sâu những địa tầng ký ức. Ở Cát Tiên, có thể khám phá những buôn làng cổ xưa nhất ở vùng Nam Tây Nguyên với hình ảnh của những mái nhà sàn tre tranh, những bếp lửa suốt ngày đêm không tắt, những công cụ chế tác đơn sơ của những người anh em X’tiêng, Mạ, Cơ-ho. Ở Cát Tiên, có thể thưởng thức câu hát jaljău mộc mạc; hòa mình vào vòng xoang hoang dã với những thiếu nữ uyển chuyển ngực trần. Tiếng chiêng ở nơi này cất lên trong đêm rừng hình như cũng còn giữ nét hồn nhiên. Ở Cát Tiên, có thể nghe rì rào âm ba dòng Đồng Nai kể chuyện cũ xứ sở và đặt tay lên phế tích đền tháp uy nghi xuất lộ từ lòng đất mà ngẩn ngơ tìm cảm hứng lịch sử. Mỗi viên gạch cổ, mỗi hiện vật, mỗi thớ đất trong lòng Cát Tiên đều vang vọng tiếng quá khứ gọi về. Các chuyên gia hàng đầu về lịch sử từng đến và sờ tay lên đất đá nơi này để tìm kiếm chân lý khoa học, như Hà Văn Tấn, Hoàng Xuân Chinh, Trần Quốc Vượng rồi Đào Linh Côn, Lê Đình Phụng, Bùi Chí Hoàng…Quần thể Di tích quốc gia đặc biệt ấy đã được phát hiện hơn 30 năm, đã có hàng trăm bài nghiên cứu, hàng chục cuộc khai quật và hội thảo chuyên đề, nhưng chưa có những kết luận khoa học thỏa đáng. Lòng đất Cát Tiên còn ẩn chứa rất nhiều bí ẩn.
Trở lại lần này, anh Nguyễn Văn Tiến, Phó Giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng và các cán bộ thuộc Ban Quản lý di tích Cát Tiên đã dẫn chúng tôi viếng thăm một phần quần thể di tích. Lại có dịp chiêm ngưỡng những ngôi đền tháp, đền mộ lớn nhỏ hoàn toàn khác nhau về chi tiết nhưng lại hòa quyện trong kiểu dáng, vươn lên trong một không gian huyền diệu, thể hiện một thế giới tâm linh bí ẩn, kỳ vĩ. Đó còn là rất nhiều những hiện vật quý báu mà tôi từng chứng kiến: nhiều cặp ngẫu tượng linga-yoni, biểu tượng của cư dân cổ xưa với tín ngưỡng phồn thực; là những bức tượng phúc thần Ganêsa, Siva, Umar… bằng chất liệu đá quý và kim loại. Đặc biệt, tại đây các nhà khảo cổ đã phát hiện hàng trăm lá vàng và phù điêu bằng vàng với kỹ thuật vẽ nổi và khắc chìm tinh xảo. Hiện vật phát hiện được từ di tích Cát Tiên ngày càng nhiều và phong phú. Không thể thống kê hết, đành dẫn lời TS Lê Đình Phụng: “Đây là khu di tích thu được hiện vật nhiều về số lượng, các hiện vật được chế tác từ nhiều chất liệu có giá trị nhất không những ở Đông Nam bộ mà cả vùng đất phương Nam trong lịch sử. Quy mô kiến trúc, số lượng hiện vật hòa nhập với nhau thành một thể thống nhất đã khẳng định đây là một khu di tích giữ vị trí trọng yếu trong lịch sử vùng đất phương Nam”.
Người già XTiêng ở buôn Bù Bi Nao hay người già Mạ ở buôn Bù Ra Rá đều nói, cái tên Cát Tiên ra đời từ một huyền thọai, huyền thoại kể về một bãi tắm của tiên giáng trần. Cho đến ngày nay, dấu tích của bãi tắm tiên ấy vẫn còn tồn tại cùng với những bàu sen, bàu cá sấu, bàu cá lóc, bàu cá trắm, bãi chim và những giống quả, giống cây độc đáo. Tôi nhớ trong một lần du thám Vườn quốc gia Cát Tiên đã từng dừng chân trên đỉnh dốc Khỉ và làm bạn với những chú khỉ đu nhảy trên đầu người vào cả ban trưa. Đứng ở đỉnh dốc này có thể ngắm hai cột đá trắng trong khu di chỉ khảo cổ học từ thung lũng bên dòng Đồng Nai và phóng tầm mắt ra một vùng núi đồi trải dài như bát úp để liên tưởng về đỉnh núi Olympus huyền thoại, những câu chuyện về Zeus và các vị thần anh em trong thần thoại Hy Lạp. Ngắm say sưa đỉnh núi Đá Mài, nơi lưu giữ những dấu tích cuối cùng của cuộc chiến tranh Chàm-Mạ trong lịch sử xa xưa.
* * *
Lần giở thư tịch cũ, năm 1936, người Pháp sau khi khảo cứu và chụp bản đồ toàn vùng bằng không ảnh, đã nhận định Cát Tiên là rừng đầm lầy á nhiệt đới của xứ Đông Dương. Trong kháng chiến, Cát Tiên là địa danh nhỏ thuộc huyện Phước Long, tỉnh Sông Bé cũ, vùng cửa ngõ của chiến khu D kiên cường. Giữa những cánh rừng đại ngàn vắng dấu chân người, giữa một không gian phế tích ngàn năm ngủ yên trong lòng đất, có một thời đã từng bị khuấy động bởi chiến tranh. Chiến tranh đã biến những cánh rừng cổ sinh tốt tươi thành căn cứ địa, biến những người DTTS hiền lành, hồn nhiên với rẫy nương, suối thác trở thành chiến binh. Vùng đất cổ bên dòng Đồng Nai một thời là đại bản doanh của khu Sáu anh hùng.
Ở nhiều vùng quê khác, chuyện chiến tranh gần như đã lùi về ký ức, nhưng với người dân Cát Tiên, vẫn còn tươi rói. Cụ Điểu K’Khen, một cựu du kích của xã Tư (tên gọi thời chiến tranh chống Mỹ, thuộc K29, Phước Long cũ, nay là thôn 4, xã Phước Cát 2) đã ở tuổi bát tuần và hơn năm mươi năm tuổi Đảng, say sưa kể về những kỷ niệm ở quãng thời gian nửa thế kỷ trước. Đó là những tháng ngày cụ cùng C200 nhận nhiệm vụ của Trung ương cục miền Nam mở đường đón đoàn B90 là những cán bộ cao cấp từ miền Bắc trở về, khai thông đường chiến lược Bắc-Nam. Con đường ấy đã in dấu chân các đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Trần Nam Trung, Mai Chí Thọ… trên hành trình về Nam lãnh đạo các tầng lớp nhân dân kháng chiến. Chuyện của cụ K’Khen và mọi người là những năm 1960-1970 Cát Tiên là một trong những địa bàn ác liệt nhất của chiến trường miền Nam và cũng là căn cứ nổi tiếng kiên trung, bất khuất. Đồng bào các DTTS cùng du kích và bộ đội chủ lực kề vai, sát cánh giáng trả cho quân thù những đòn chí mạng, bảo đảm sự an toàn và lớn mạnh của một vùng chiến khu rộng lớn. Nối chuyện với K’Khen, các cựu du kích Điểu Thị Hơn, Điểu K’Băm như sống lại với một thời hào hùng qua câu chuyện về sự hợp lực của du kích các xã Ba, Tư, Năm, Sáu trong trận đánh ác liệt diễn ra nhiều ngày chống Mỹ-Ngụy đổ bộ tại đồi Đăng Xa, trận đánh trả trực thăng vận trên núi Bờ Xa Lu Xiêng…
Lịch sử của một vùng quê là dòng ký ức xuyên suốt, không có thời nào bị ngắt quãng, bị lãng quên. Văn hóa, những hệ giá trị trường tồn được dựng nên không chỉ bởi những ứng xử nhân văn chuyển giao trao truyền qua từng thế hệ mà có thể là cả bằng máu xương đổ xuống, bằng sự hy sinh của bao lớp người tranh đấu, giành giữ. Lẽ đó, hôm nay trên vùng đất Cát Tiên, nơi in dấu nhiều địa tầng trầm tích, vùng chiến địa anh hùng thưở nào đang vang vọng những âm sắc mới. Trong từng thớ đá, tấc đất, trên ngọn núi cao hay dưới dòng sông sâu như vang vọng tiếng nói của quá khứ, của truyền thống cha ông hiện về. Ở vùng đất này, chuyện cũ chuyện mới cứ đan xen. Việc làm được đã nhiều, việc chưa làm cũng bày ra ngổn ngang trước mắt. Chuyện với lãnh đạo huyện Cát Tiên là câu chuyện đầy ắp những dự định. Ví như con cá lăng dưới dòng nước Đồng Nai sẽ lên bàn đặc sản hay hạt gạo dẻo thơm mang thương hiệu Cát Tiên sẽ đến với miền xa. Ví như cây diệp hạ châu có thể thành dược liệu. Rồi mời khách mọi miền đến khám phá, trải nghiệm những cái hay, cái lạ, cái quý của Cát Tiên. Hãy hình dung một tour du lịch cực kỳ thú vị khi chỉ trên một tuyến đường mấy chục cây số mà có thể khám phá vùng trầm tích bên dòng Đồng Nai với hệ thống di sản vô giá từ hàng ngàn năm trong thời sơ sử, được trải nghiệm rừng quốc gia đặc biệt và về nguồn với di tích chiến địa Khu 6 và Chiến khu D năm xưa…
Nhiều lần đến và nhiều lần trở lại, Cát Tiên trong tôi vẫn vẹn nguyên sự hấp dẫn chứa đầy bí ẩn. Vùng đất xa ngái ấy có gì mà lúc nào cũng cảm giác nhớ về, ám ảnh và neo đậu tâm hồn.
UÔNG THÁI BIỂU