Trên thế giới hiện còn có 3 loài voi: Voi đồng cỏ châu Phi, voi rừng châu Phi và voi châu Á. Việt Nam là 1 trong 13 nước có voi châu Á phân bố. Voi thuộc Phụ lục I - Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp - Công ước CITES.
Ở Việt Nam, voi được xếp vào bậc nguy cấp trong danh mục Sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), bậc cực kỳ nguy cấp theo Sách Đỏ Việt Nam và được đưa vào nhóm có quy chế bảo tồn cao nhất, nghiêm cấm khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại.
Ngoài việc quy định bảo tồn ở mức cao nhất, Chính phủ cũng đã lập kế hoạch hành động cho từng giai đoạn cụ thể: Giai đoạn 2006 - 2010 bằng Quyết định 733/QD-TTg ngày 16/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ; Giai đoạn 2012 - 2020 bằng Quyết định 940/QĐ-TTg ngày 29/7/2012 và Quyết định số 763/QĐ-TTg ngày 21/5/2013 với 3 dự án thành phần tại Đắk Lắk, Đồng Nai và Nghệ An và 1 dự án cấp Trung ương. Và gần đây nhất, Chính phủ đã đồng ý gia hạn thực hiện các hoạt động bảo tồn đến năm 2025, tại Quyết định số 413/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Các nỗ lực trong thời gian qua của các cơ quan nhà nước cũng đã nhận được sự ủng hộ và đồng hành của các tổ chức phi chính phủ như WWF, AAF, USAID tại các điểm dự án. Riêng Tổ chức HSI đã hỗ trợ từ góc độ hiện trường qua chính sách và thúc đẩy sự phối hợp của các nhà nghiên cứu, quản lý, thực thi và các chuyên gia trên cơ sở Dự án “Bảo vệ voi châu Á tại Đồng Nai thông qua các giải pháp giảm thiểu và ngăn chặn xung đột voi người một cách bền vững”.
Dự án hiện đang thí điểm Chương trình giám sát quần thể tại Đồng Nai, nhằm định dạng được từng cá thể voi với sự hỗ trợ của Ts. Pruthu Fernando, người có hơn 40 năm kinh nghiệm làm công tác bảo tồn voi, hiện đang là Chủ tịch Trung tâm phát triển Voi Srilanka và là thành viên Nhóm chuyên gia Voi Châu Á của IUCN. Quá trình này hiện đang cho kết quả khả quan và có thể tiến tới áp dụng ở các địa phương khác.
Những nỗ lực trên cho thấy, công tác bảo tồn voi vẫn đang được thực hiện liên tục, với tham gia phối hợp chặt chẽ của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các cơ quan quản lý, các đơn vị thực thi, các tổ chức phi chính phủ và sự quan tâm mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, chúng ta có quyền tin một tương lai tươi sáng cho loài voi Việt Nam.