Những cánh thư từ Trường Sơn thương nhớ
Đôi tay run run khi lật mở lại những kỷ vật của chồng, bà Lê Thị Chạy, vợ Liệt sĩ Đoàn Anh Thông không ngăn được dòng nước mắt khi cho chúng tôi xem hơn 200 lá thư đã ngả màu vì thời gian; xem cuốn sách học về pháo cao xạ, tập nhật ký hơn 100 trang được ông viết bằng cả thơ và văn xuôi...
“Lá thư cuối cùng ông ấy viết cho tôi ngày 16/11/1971 từ tuyến lửa Quảng Bình, trước lúc hy sinh 10 ngày. Khi ấy, tôi đang mang thai cháu Phong. Trong thư ông ấy dặn: “Chúng mình gặp nhau vào cơn bão số 8 năm 1971, nếu sinh con trai mình đặt tên con là Phong, sinh con gái đặt tên là Thủy”, bà Chạy nghẹn ngào kể.
Hồi tưởng về những kỷ niệm hiếm hoi bên chồng, bà Chạy kể: “Nhập ngũ được hai năm thì ông nhà tôi về tổ chức đám cưới. Ở với nhau trọn một tuần, ông ấy lại lên đường, đóng quân bên cầu Đuống. Ngày đơn vị ông ấy hành quân đi B, tôi đạp xe cả đêm để lên thăm nhưng chỉ thoáng thấy bóng chồng trên xe mà không thể gặp mặt. Ai ngờ, ông ấy đi luôn không bao giờ về nữa”.
Trước những dòng chữ chất chứa biết bao tâm tư, trăn trở, chúng tôi không khỏi rưng rưng: “Đôi ta đang sống trong thời kỳ cả nước chiến tranh, anh xa em, xa cả người cha người mẹ ở nơi hậu phương. Anh tranh thủ biên thư về cho em giữa lúc toàn quân đang chống Mỹ, giữa lúc quân và dân hai miền đang thắng lớn…”.
Và trong mỗi một trang nhật ký, người lính ấy vẫn luôn gửi gắm khát khao về ngày chiến thắng: “Ta sẽ viết lên, viết lên sự thật / Của đời ta trong khói lửa chiến tranh / Trong lửa đạn, khói bom thù chồng chất / Hay hoà bình cây lá lại màu xanh”.
Liệt sĩ Đoàn Anh Thông mồ côi mẹ từ khi mới lên năm tuổi, lớn lên nhờ sự lam lũ của người cha quanh năm vất vả cày bừa. Lập gia đình, tình cảm yêu thương được người chiến sĩ trẻ san sẻ cho gia đình bên vợ. Bố vợ ông là cán bộ tình báo thời kháng chiến chống Pháp bị địch giam giữ và sát hại. Rất nhiều giai đoạn, trong cùng một ngày mà chiến sĩ Đoàn Anh Thông đã gửi về cho mỗi người từ bố đẻ, vợ, mẹ vợ… mỗi người một lá thư riêng.
“Con, Thông! Đứa con yêu quý của thầy đã phải xa thầy, xa bà con hàng xóm hơn bốn năm trời ròng rã… Bốn năm đó, con đi biền biệt trên các nẻo đường của Tổ quốc. Giờ đây điểm lại mới thấy sao mà vất vả thế, con người cũng già dặn hơn trong khói lửa và đạn bom… Thầy hãy bớt nghĩ về con và dành nhiều thời gian nghỉ ngơi, còn chỉ để riêng con suy nghĩ về gia đình và thầy thôi”; “Làm sao tuổi thọ của mẹ càng ngày càng tăng, chờ ngày chiến thắng con sẽ về, lúc đó gia đình đầm ấm hơn xưa”.
Đó là những thông tin từ 2 trong số 3 lá thư liệt sĩ Thông gửi về gia đình cùng ngày 16/3/1968 cho bố đẻ và mẹ vợ.
Dù tuổi đã ngoài bảy mươi, nhưng bà Chạy vẫn thuộc lòng từng câu, từng chữ của hàng trăm bức thư mà chồng để lại, nhớ cả những chữ cái lẫn vào các con số đầy trúc trắc của số hiệu hòm thư, nhớ từng chặng đường hành quân của chồng.
“Mấy chục năm qua, gia đình tôi đã lần theo thông tin trên các kỷ vật, lặn lội khắp nơi, gặp gỡ đồng đội, đơn vị… mong tìm được nơi mai táng của chồng nhưng vô vọng”, bà Chạy nghẹn ngào.
Khát vọng đoàn tụ nơi quê nhà
Bặt tin suốt mấy năm, nhất là sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng vẫn không thấy ông trở về, bà Chạy đã linh cảm điều chẳng lành. Xen với bao âu lo, phấp phỏng, người vợ trẻ vẫn âm thầm hy vọng có một ngày gia đình đoàn tụ. Nhưng rồi sau 1975, gia đình chính thức nhận được giấy báo tử! “Có lần tôi đi làm chế độ cho con, người cán bộ chính sách huyện cứ gặng hỏi: Tại sao chồng hy sinh năm 1971 mà năm 1972 mới sinh con? Không còn cách nào khác, tôi phải mang những lá thư của chồng đến. Người cán bộ ấy và tôi nhìn nhau trong nước mắt”, bà Chạy nhớ lại.
Lớn lên không biết mặt cha, anh Đoàn Nam Phong, con trai duy nhất của Liệt sĩ Đoàn Anh Thông hiện là cán bộ ngành y tâm sự: “Hễ có ai trong làng tìm thấy phần mộ của người thân là liệt sĩ thì mẹ con tôi lại khóc. Hay bất chợt có bóng dáng người lính ngang qua nhà, mẹ tôi lại ngậm ngùi hàng giờ. Ông ngoại hy sinh từ ngày đánh Pháp, rồi đến lượt bố tôi nằm lại trên chiến trường nên mẹ tôi cứ luôn khắc khoải, không biết giờ này ông và bố nằm ở nơi đâu? Mẹ tôi dặn: Nếu đời mẹ không tìm thấy bố, thì con và những thế hệ sau này vẫn phải đi tìm cho bằng được”.
Trên giấy báo tử của Liệt sĩ ghi rõ: “Đoàn Anh Thông, sinh năm 1946, nguyên quán Nam Cường, Nam Ninh, Hà Nam Ninh. Nhập ngũ năm 1965, chức vụ Trung đội trưởng, cấp bậc Thiếu úy, đơn vị D.117 – E234 – F361. Hy sinh ngày 26.11.1971 trong trường hợp chiến đấu chống Mỹ bảo vệ Tổ quốc, được công nhận là liệt sĩ”.
Tuy nhiên, thông tin trong những trang thư và những dòng nhật ký còn lại của Liệt sĩ Đoàn Anh Thông khá phức tạp. Có lúc ông ở Đại đội 137, Trung đoàn 223, có lúc ông lại trực thuộc Tiểu đoàn bộ của Trung đoàn 257. Lần theo địa chỉ ghi trên các bì thư, trận địa pháo 37mm của ông đóng quân ở rất nhiều nơi: Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Tây, Hà Bắc, Nam Định, Quảng Bình.
Nhớ lại những năm tháng tuổi thơ, anh Phong chia sẻ: “Mẹ tôi đã lặn lội vào những vùng bố từng đóng quân nhưng không tìm thấy một chút thông tin nào. Rất nhiều lần sau này, hễ nghe được bất kỳ tin tức gì về bố, mẹ lại cơm đùm cơm nắm bồng bế tôi đi tìm”.
Sau rất nhiều lần kiếm tìm, gia đình Liệt sĩ Đoàn Anh Thông gặp được ông Nguyễn Văn Hoạch (xã Hải Hà, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định), là người trực tiếp chôn cất Liệt sĩ Thông cùng 5 đồng đội.
Do bị sức ép bom, trí nhớ không còn minh mẫn nên những giây phút tỉnh táo hiếm hoi ông Hoạch đã kể lại, trận địa pháo của đơn vị được bố trí bảo vệ binh trạm và Bệnh viện Cự Nẫm (làng Cự Nẫm, Bố Trạch, Quảng Bình). Khẩu đội của ông Thông bị địch oanh tạc vào cuối tháng 11 năm 1971. Các chiến sĩ hy sinh lúc 17h nhưng mãi đến 19h, đồng đội mới khiêng được họ qua Cổng trời Cha Lo (xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình), mai táng ở ven đường. Mộ của ông Thông có một chiếc bát úp lên vết thương ở bụng và một chiếc bút máy.
Số thông tin ít ỏi ấy lại trở thành hành trang quan trọng cho gia đình tiếp tục đi tìm phần mộ của người chồng, người cha vẫn còn nằm lại đâu đó ở chiến trường. Thế nhưng, ở thời điểm hiện tại anh Phong cho biết, từ Cổng trời Cha Lo đi ngược vào địa phận tỉnh Quảng Bình có hàng chục con đường, đâu đâu cũng mênh mông núi đồi, nên không xác định được Liệt sĩ Đoàn Anh Thông cùng đồng đội hiện đang nằm an nghỉ ở ven đường nào, ở km nào. Có lần, bà Chạy cùng anh Phong đi xe ôm 300 cây số từ Đồng Hới (Quảng Bình) sang tận Cổng Trời (Nam Lào), rồi lại vào các huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa (Quảng Bình) để tìm kiếm nhưng vô vọng...
Đất nước đã hòa bình thống nhất gần nửa thế kỷ, nhưng sự khát khao về một ngày gia đình được đoàn tụ vẫn luôn là nỗi niềm chưa bao giờ nguôi ngoai trong tâm khảm của bà Lê Thị Chạy và người thân.
Thắp hương trước di ảnh của Liệt sĩ Đoàn Anh Thông, tôi nghe văng vẳng lời nguyện cầu đầy day dứt của người vợ Liệt sĩ: Hết chiến tranh rồi sao anh chưa về…