Báu vật thiêng kết nối cộng đồng
Phải chăng do ra đời giữa đại ngàn nên âm nhạc Tây Nguyên được chắt lọc từ âm thanh thiên nhiên, từ hồn cốt xứ sở và căn tính con người nơi đây. Đó là âm nhạc thiêng, là phương tiện thể hiện tâm trạng và nhu cầu giao tiếp với thần linh, với thiên nhiên và cộng đồng thân thuộc. Và chắc chắn chiêng tre là một trong những đại diện như vậy!
Theo lời Y Bây Kbuôr, chiêng tre do chính người Ê Đê tạo ra từ những nguyên liệu tự nhiên, sẵn có trong rừng. Bộ chiêng tre thường có 5, 7, 9, 11 hoặc 19 chiếc hợp lại. Chế tác được một bộ Ching Kram rất kỳ công, cây tre chặt về phơi khô khoảng 2 tháng. Độ dài mỗi ống tre từ 29-45cm.
Các ống tre được bịt kín một đầu giữ nguyên mắt, đầu còn lại gọt giũa để tạo âm thanh. Đi theo mỗi ống tre là một thanh tre già. Khi diễn tấu, người đánh kẹp ống tre vào 2 đùi, đặt thanh tre già nằm ngay phía trên miệng ống, một đầu kê trên đùi một đầu đỡ bằng lòng bàn tay trái. Tay phải cầm khúc cây làm dùi gõ vào giữa thanh tre.
Cũng như chiêng đồng, nghệ thuật chỉnh chiêng tre đòi hỏi nghệ nhân phải có một đôi tai thẩm âm thật tốt và đôi tay khéo léo. Tùy theo độ lệch của âm cao hay thấp mà nghệ nhân cắt ngắn, hay gọt bớt miệng ống. Trong dàn chiêng tre, mỗi chiếc Ching Kram có âm sắc, giai điệu với cung bậc riêng. Khi tất cả cùng vang lên sẽ tạo nên một dàn hợp xướng giống như chiêng đồng.
Nếu âm thanh của chiêng đồng trầm bổng, chậm rãi, ngân vang thì chiêng tre lại có phần mộc mạc, rền chắc và rộn ràng. Kỳ công chế tác là thế, nhưng mỗi bộ chiêng tre chỉ sử dụng được một thời gian rồi phải làm mới, vì nếu để lâu thì âm thanh sẽ không được như ban đầu nữa.
Lắng nghe và xem trọn vẹn đội chiêng tre của buôn Kmrơng, Prông A trình tấu 3 bài “Chong chóng quay”, “Giai điệu Aray” và “Cơn mưa đá” với những tiết điệu khoan thai và phiêu bồng như suối thác, chúng tôi phải gật đầu công nhận thanh âm của Ching Kram không chỉ còn là âm nhạc, đó thực sự là tiếng lòng, tiếng đời của người chơi chiêng, là lời tâm tình gửi tới nhau và gửi đấng tối cao. Bằng thanh âm mộc mạc, gần gũi những chiếc chiêng tre đã gắn con người với thế giới thần linh và gắn thần linh với thế giới con người.
Để buôn làng rộn ràng tiếng chiêng
Nâng niu chiếc chiêng trên trên tay, Y Bây Kbuôr hồi tưởng, trước đây trong các lễ hội của đồng bào dân tộc Ê Đê như lễ hội cúng bến nước, lễ hội ăn cơm mới, lễ kết nghĩa anh em, lễ đặt tên… được tổ chức tại buôn làng đều không thể thiếu được thanh âm của Ching Kram. Qua Ching Kram người nghe như được ngắm một “bức tranh âm nhạc” toàn cảnh về văn hóa, con người, cuộc sống Tây Nguyên từ xa xưa cho tới nay, từ cái chung cho tới cái riêng... độc đáo, cụ thể, hấp dẫn.
Thế nhưng, dưới tác động của nhiều yếu tố đã khiến mạch sống và nhịp điệu sinh hoạt trong các buôn khác trước rất nhiều, nên có một khoảng thời gian Ching Kram phần nào mai một. Thực tế đó đã khiến những người nặng lòng với văn hóa truyền thống của dân tộc Ê Đê, như Y Bây Kbuôr hết sức lo âu, trăn trở.
Với một niềm tin mãnh liệt rằng, nền tảng văn hóa từng được người Ê Đê bồi đắp qua hàng trăm năm vẫn luôn có sức chi phối mạnh mẽ trong đời sống đương đại, Trưởng buôn Kmrơng prông A đã miệt mài mở lớp dạy cách chế tác và cách chơi Ching Kram cho những người trẻ. Anh quả quyết: Những người trẻ là những người sẽ quyết định tương lai của buôn làng, quyết định sự tồn tại của văn hóa bản địa. Tôi luôn kỳ vọng vào một thế hệ trẻ am hiểu, đam mê âm nhạc dân gian Tây Nguyên nói chung và âm nhạc Ê Đê nói riêng, vấn đề là biết cách khơi đúng mạch, phát huy đúng hướng. Ngoài ra, không để chiêng tre chỉ xuất hiện trong các buổi sinh hoạt nghi lễ tại buôn làng nữa, tôi cùng đội chiêng của buôn đang nỗ lực sân khâu hóa chiêng tre, đưa chiêng tre đi biểu diễn để thật nhiều người biết tới loại nhạc cụ này.
Dù chỉ mới 14 tuổi, thế nhưng cùng với đội chiêng tre của buôn Kmrơng prông A, Y Sô rian đã có thể thể hiện được nhiều bài hát của dân tộc Ê Đê bằng chiêng tre. Em kể lại: “Để chơi được chiêng tre em mất 3 tháng làm quen với nhạc cụ và 6 tháng sau em mới thuộc được âm điệu của một số bài hát. Thời gian đầu em thấy khó học lắm, từng nghĩ tới chuyện bỏ cuộc nhưng anh Y Bây Kbuôr động viên em rất nhiều”.
Giống như Y Soriam Kbuôr, Y Đô ni cũng say mê với Ching Kram và đã có hơn 4 năm gắn bó với loại nhạc cụ này. Y Đô ni hồ hởi: “Em học chơi Ching Kram từ lúc 14 tuổi, ở buôn em có nhiều bạn cùng tham gia học lắm. Em học để cùng với mọi người trong buôn gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình”.
Kể từ khi bắt tay thực hiện Dự án 6: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 (Chương trình MTQG 1719) TP. Buôn Ma Thuột đã có nhiều hoạt động đa dạng và phong phú nhằm “tiếp sức” cho di sản này. Trong đó, việc truyền dạy kiến thức, kỹ năng diễn tấu cồng chiêng cho lớp trẻ được chú trọng, đầu tư thích đáng nên đã tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức và trách nhiệm của lớp trẻ về việc gìn giữ, phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Hiệu quả của Dự án được thể hiện rõ nét tại Liên hoan các đội chiêng trẻ TP. Buôn Ma Thuột lần thứ I được tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua. Ông Võ Tiến Dũng, Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin TP. Buôn Ma Thuột cho biết, trên địa bàn thành phố có 33 thôn, buôn người dân tộc thiểu số, thì có 14 đội chiêng trẻ, với hơn 250 nghệ nhân, diễn viên “nhí” tham gia kỳ liên hoan này. Đây là thành quả đáng kể và có ý nghĩa sau những năm triển khai đề án truyền dạy diễn tấu cồng chiêng cho thế hệ trẻ của chính quyền TP. Buôn Ma Thuột nói riêng và tỉnh Đắk Lắk nói chung.