Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Động lực mới cho lực lượng cô đỡ thôn bản

Thúy Hồng - 09:36, 11/04/2023

Cô đỡ thôn bản được ví như cánh tay nối dài của ngành Y tế trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng DTTS và miền núi. Nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước đã có cơ chế chính sách để duy trì, củng cố và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn bản. Tuy nhiên, từ thực tế mỗi nơi một cách làm, do vậy hoạt động của cô đỡ thôn bản gặp không ít khó khăn. Để phát huy vai trò của đội ngũ cô đỡ thôn bản, cần sự quan tâm hơn nữa của các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai vận dụng kịp thời, linh hoạt hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với cô đỡ thôn bản...

Đội ngũ cô đỡ thôn bản đóng góp quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại các vùng đồng bào DTTS đặc biệt trong việc giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh
Đội ngũ cô đỡ thôn bản đóng góp quan trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại các vùng đồng bào DTTS, đặc biệt trong việc giảm tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh

Những cô đỡ thôn bản vượt khó bám trụ với nghề

Cô đỡ thôn bản là những người sinh sống tại cộng đồng DTTS, sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình để truyền đạt cho người dân thôn bản những thông tin quan trọng về chăm sóc sức khỏe; đồng thời cung cấp dịch vụ làm mẹ an toàn ngay tại thôn bản.

Để trở thành cô đỡ, mỗi học viên phải trải qua quá trình học tập ít nhất 6 tháng theo chương trình và nội dung đào tạo của Bộ Y tế. Với kiến thức, kỹ năng được đào tạo thực hành tại các bệnh viện, cô đỡ có thể chăm sóc bà mẹ khi có thai và sinh con, đỡ đẻ an toàn, phát hiện tai biến ở bà mẹ và trẻ sơ sinh, thực hiện kỹ năng cứu sống cơ bản và chuyển tuyến kịp thời. Với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế, đến nay toàn quốc đã có 3.077 cô đỡ được đào tạo.

Chị Lò Thị Đường (huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên) cho biết: Trong suốt 7 năm làm cô đỡ tại các thôn bản, chị không nhớ nổi đã đỡ đẻ cho bao nhiêu ca, nhưng khi nào các sản phụ cần là lúc ấy chị Đường có mặt. Kể cả 1 - 2 giờ đêm, họ gọi là chị chạy đến.

Do địa hình vùng cao hiểm trở, không có điện, chợ lại xa, khiến hành trình thăm khám các thai phụ của chị vô cùng gian nan. Bên cạnh việc giám sát sức khỏe sinh sản cho 97 hộ dân, chị Lò Thị Đường phải kiêm nhiệm cả công tác phụ nữ và dân số. Công việc hằng ngày của chị là thăm khám các bà mẹ mang thai, chăm sóc sức khỏe của mẹ và bé sau khi sinh.

Chị Đường kể, đồng bào dân tộc Mông thường sản xuất chủ yếu làm ruộng, nương trong rừng. Bởi vậy, để chăm sóc sức khỏe các sản phụ, mỗi ngày, chị Đường phải đi vài tiếng đồng hồ để gặp được từng sản phụ, tư vấn về khám sức khỏe định kỳ, thăm khám cho sản phụ. “Có phải lúc nào họ cũng ở nhà đâu. Bà bầu vượt mặt vẫn lên nương, vào rừng. Chúng tôi phải đi theo họ lên nương để vận động họ về nhà, đến cơ sở y tế khi gần đến ngày dự sinh”, chị Đường nói.

Vất vả, bận rộn nhưng một tháng, chị chỉ được hỗ trợ 447.000 đồng. "Tôi dành 200.000 đồng nạp tiền điện thoại, phục vụ cho việc gọi điện hỏi thăm sản phụ. Số tiền còn lại tôi mua xăng để đi tới nhà họ. Với kinh phí hiện tại không đủ để tôi trang trải cuộc sống. Thậm chí, tôi còn phải tự bỏ tiền túi ra để chi trả cho công việc. Nhưng người dân họ cần mình thì mình phải làm”, chị Lò Thị Đường tâm sự.

Cô đỡ thôn bản chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em tại huyện Mường Nhé (Điện Biên)
Cô đỡ thôn bản chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tại huyện Mường Nhé (Điện Biên)

Tương tự, cô đỡ thôn, bản Lò Thị Luấn (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) cho biết, giao thông ở miền núi rất khó khăn, bản xa nhất cách Trạm y tế xã 18 km, phải đi bộ nhiều giờ đồng hồ, nhưng từ năm 2020 đến nay, phụ cấp cho y tế thôn bản bị cắt hoàn toàn, tiền đi lại, xăng xe không có, nên ảnh hưởng nhiều đến triển khai công việc hàng ngày. Trước đó, địa phương cũng có chính sách đối với cô đỡ thôn bản hoạt động từ 2013 - 2019, nhưng chỉ với mức phụ cấp 550.000 đồng/tháng từ việc kiêm nhiệm này.

Ông Đinh Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Sức khỏe bà mẹ - trẻ em (Bộ Y tế) cho biết: Việc thực thi các chính sách cho cô đỡ thôn bản giữa các địa phương có sự khác nhau, khiến việc duy trì hoạt động của đội ngũ này gặp nhiều khó khăn. Nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho cô đỡ thôn bản hoạt động.

Lãng phí nguồn nhân lực cơ sở

Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để duy trì, củng cố và phát triển đội ngũ cô đỡ thôn bản, việc thực thi các chính sách còn có sự khác nhau giữa các địa phương, dẫn tới việc duy trì hoạt động của đội ngũ cô đỡ gặp nhiều khó khăn, nhiều địa phương không bố trí kinh phí hỗ trợ cho cô đỡ thôn bản hoạt động.

Theo báo cáo của các địa phương, tính đến 31/1/2023 đã có 1.528 cô đỡ thôn bản được đào tạo đã ngừng hoạt động do không có kinh phí. Hiện tại, số cô đỡ thôn bản được hưởng phụ cấp đã giảm xuống chỉ còn 911 người, trong đó có 732 người kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ của nhân viên Y tế thôn bản.

Theo Thông tư số 07/2013/TT-BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 8/3/2013, cô đỡ thôn, bản” đã chính thức được công nhận là một chức danh trong hệ thống y tế Việt Nam. Dù vậy, việc bố trí kinh phí cho hoạt động của cô đỡ thôn bản tại địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế.

Bà Lý Thị Đảm - Phó Trưởng Khoa Sức khỏe sinh sản, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Hà Giang chia sẻ, Hà Giang là tỉnh có đông đồng bào DTTS sinh sống. Tại đây, mỗi cô đỡ thôn bản chỉ được hỗ trợ trung bình mỗi người khoảng 700.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, nhiều lần công việc này bị gián đoạn vì thiếu phụ cấp, họ phải làm thêm các công việc khác kể có thu nhập.

Theo bà Đảm, việc các cô đỡ thôn bản ngừng hoạt động vì khó khăn kinh tế, là sự lãng phí vô cùng lớn đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi họ đã được đào tạo bài bản và lựa chọn từ chính cộng đồng dân tộc, nhằm phục vụ nguồn bệnh nhân tại chỗ, ở những nơi mà hệ thống y tế chưa phát triển.

Chị Triệu Thị Phấy (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), người theo dõi sức khỏe sinh sản cho hơn 100 gia đình dân tộc Dao đỏ của thôn bày tỏ: “Tôi mong muốn các ban, ngành, đoàn thể  quan tâm và bổ sung kinh phí hoạt động cho những cô đỡ thôn bản”.

Theo báo cáo của các địa phương, kết quả khảo sát năm 2021 cho thấy, tại 18 tỉnh miền núi khó khăn có tới 4.346 thôn bản cần có cô đỡ, vì cô đỡ thôn bản có sự đáp ứng tại chỗ ngay lập tức, liên tục và miễn phí đối với các bà mẹ và trẻ em ở những vùng khó khăn. Đặc biệt, tại các tỉnh miền núi khó khăn, như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Kon Tum, Gia Lai vẫn còn nhiều thôn bản, có tỷ lệ tự sinh tại nhà vẫn rất cao (trên 60%).

Động lực mới cho cô đỡ thôn bản

Triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 với 10 dự án thành phần, trong đó có nội dung chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn bản (thuộc Dự án 7). 

Theo đó, chính sách hỗ trợ nhân viên y tế, cô đỡ thôn bản đỡ đẻ tại nhà cho bà mẹ không đến đẻ tại cơ sở y tế: 200.000 đồng/ca; chăm sóc sau sinh cho bà mẹ và trẻ sơ sinh: 100.000 đồng/lần (Thông tư số 15/2022 ngày 4/3/2022 của Bộ Tài Chính). Đây sẽ là động lực mới cho đội ngũ cô đỡ thôn bản phát huy hết vai trò của mình để chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em vùng DTTS và miền núi.

Phát biểu tại Hội nghị Vận động chính sách hỗ trợ đội ngũ cô đỡ thôn bản, được Bộ Y tế tổ chức đầu tháng 3 vừa qua, ông Y Thông - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc  đề nghị, cấp ủ, chính quyền, hệ thống chính trị cơ sở các cấp vùng DTTS và miền núi xác định rõ vai trò, vị trí của cô đỡ thôn bản; quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia, nhất là thực hiện kịp thời, linh hoạt, đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với cô đỡ thôn bản... nhằm phát huy vai trò của đội ngũ cô đỡ thôn bản, xứng đáng là cánh tay nối dài của ngành yY tế trong việc thực hiên sứ mệnh chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, góp phần phát triển nguồn nhân lực vùng DTTS và miền núi. 

Tin cùng chuyên mục
Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Hàng loạt tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, trong đó nổi cộm là địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế..., đã tạo "đất sống" cho những hủ tục, tập quán lạc hậu tồn tại. Đây chính là những thách thức lớn làm ảnh hưởng đến quá trình nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây xứ Nghệ. Thực tế, đã có nhiều giải pháp khắc phục hạn chế được đưa ra, trong đó là việc tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân.