Trong nhiều năm qua, quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, về ĐTBD cán bộ người DTTS được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam. Qua từng kỳ Đại hội Đảng, nội dung về công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ người DTTS đã thường xuyên được đề cập.
Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã nêu: “Có chính sách ưu tiên đào tạo cán bộ cho cơ sở. Ban hành các chính sách khuyến khích cán bộ công tác ở vùng cao, vùng sâu, cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: “Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ DTTS. Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức người DTTS. Cán bộ công tác ở vùng DTTS và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) khẳng định phương hướng: “... tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào DTTS. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng DTTS trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc... Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, Người có uy tín tiêu biểu trong vùng DTTS”.
Bàn về định hướng quản lý nhà nước (QLNN), Nghị quyết 24-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ Bảy, khóa IX về “Công tác dân tộc” (2003) nhấn mạnh: “Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người DTTS cho từng vùng, từng dân tộc… Nghiên cứu sửa đổi tiêu chuẩn tuyển dụng, bổ nhiệm và các cơ chế, chính sách đãi ngộ cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là những cán bộ công tác lâu năm ở miền núi, vùng cao”.
Để thực hiện thành công các chủ trương, chính sách về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại ở vùng DTTS và miền núi, tạo thế và lực cho cách mạng, vai trò của cán bộ nói chung, của cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS nói riêng được xem là một khâu then chốt, trọng yếu, có tính quyết định.
Vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về công tác dân tộc, những năm qua, các cấp các ngành, từ Trung ương tới địa phương đã luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ người DTTS. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hệ thống chính trị. Ngày càng có nhiều hơn cán bộ người DTTS tham gia trong hệ thống chính trị.
Theo Báo cáo số 855/BC-UBDT, ngày 3/6/2022, của Ủy ban Dân tộc, về “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/1/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc”, tính đến năm 2021, số lượng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là 3.952.225 người. Trong đó, một số bộ, ngành quan tâm bố trí, sử dụng cán bộ, công chức người DTTS trên 5% tổng số biên chế, số lượng người được giao, như Ủy ban Dân tộc (25,4%), Bộ Tư pháp (7,2%), Bộ Quốc phòng (6,69%), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5,45%), Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (5,64%),...
Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc thực hiện đã đạt được mục tiêu tỷ lệ đề ra theo Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14/3/2016, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS trong thời kỳ mới”; đặc biệt, một số tỉnh có tỷ lệ người DTTS chiếm từ 10% đến trên 70% tổng dân số của tỉnh đã thực hiện theo đúng hoặc vượt mức tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS chiếm từ 5%, 10%, 15%, 20% tổng số biên chế được giao.
Cũng theo Báo cáo số 732/BC-UBDT, ngày 10/6/2021, của Ủy ban Dân tộc, về “Tổng kết chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020”, có 50.696 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; 222.229 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước; 10.516 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về tin học. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ người DTTS ngày càng được trẻ hóa, có trình độ chuyên môn, đa dạng về thành phần dân tộc.
Trước yêu cầu phát triển đất nước và vùng DTTS trong bối cảnh mới, để cán bộ, công chức, viên chức người DTTS được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hệ thống chính trị, bảo đảm nguồn lực để thực hiện chính sách. Trong đó tập trung đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Căn cứ vào các quan điểm, đường lối của Đảng về CTDT và ĐTBD cán bộ người DTTS, để hoàn thiện quản lý nhà nước (QLNN) về lĩnh vực này, trong thời gian tới nên tập trung vào những phương hướng sau:
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS là để góp phần phát triển nguồn nhân lực; tạo nguồn cán bộ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược công tác cán bộ dân tộc và vùng DTTS. Chiến lược này cần được quán triệt sâu sắc trong nhận thức và quyết tâm chính trị ở mọi cấp QLNN, đặc biệt là ở các địa phương. Trực tiếp và trước mắt là gắn liền với việc thực hiện “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030” được Chính phủ phê duyệt ngày 15/7/2021 trong Nghị quyết số 76/ NQ-CP.
Đổi mới nội dung và phương thức ĐTBD cán bộ người DTTS cần phải được nhìn nhận là một công việc thường xuyên của mọi cấp QLNN lĩnh vực CTDT và ĐTBD. Thể chế hóa các quy định của QLNN trong lĩnh vực này gắn liền với quá trình cải cách chế độ công vụ theo tinh thần của Nghị quyết số 76/NQ-CP.
Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với vị trí việc làm. Đồng thời rà soát, sửa đổi, bổ sung nội dung chương trình bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn ngạch công chức, hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và yêu cầu của vị trí việc làm, bảo đảm không trùng lắp, tiết kiệm, hiệu quả; rà soát, cắt giảm các chứng chỉ bồi dưỡng không cần thiết.”
Cần quan tâm thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ, để công tác này thiết thực hơn và đáp ứng phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn ở các địa phương. Tránh tình trạng đầu tư số lượng nhiều, đào tạo nhân lực khá kỹ lưỡng nhưng “sản phẩm” của quá trình ĐTBD lại không được sử dụng. Nhiều địa phương đã xuất hiện tình trạng “thừa” cán bộ theo cách này. Vì thế, xây dựng một lộ trình đổi mới QLNN về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ người DTTS từ nay đến 2030 sẽ là điều cần thiết.
Tóm lại, đầu tư vào công tác cán bộ không chỉ bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo, mà còn góp phần xây dựng một đội ngũ cán bộ chất lượng cao, có tầm nhìn, tâm huyết, năng lực và động lực để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Đặc biệt, việc ĐTBD cán bộ người DTTS là cần thiết để tạo ra một môi trường giáo dục đa dạng, tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của tất cả các dân tộc. Việc nâng cao năng lực và chất lượng cán bộ người DTTS sẽ giúp họ có thể tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi. Điều này không chỉ có lợi cho các DTTS mà còn góp phần tạo ra một xã hội công bằng, phát triển bền vững và hòa hợp.
Vì vậy, chú trọng đúng đắn đến công tác QLNN về ĐTBD cán bộ người DTTS là cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Nếu như các cán bộ người DTTS được ĐTBD đầy đủ, họ sẽ đóng góp tích cực vào việc phát triển đất nước và xây dựng một xã hội bình đẳng, hòa hợp và phát triển bền vững.