Người Thổ là một trong 54 dân tộc Việt Nam. Người Thổ có nhiều nhóm khác nhau, có các tên gọi khác như Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng, Con Kha, Xá Lá Vàng... Nhóm dân tộc Việt-Mường có vùng cư trú chính ở phần phía tây tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Người Thổ nói tiếng Thổ, tiếng Cuối... ngôn ngữ thuộc Ngữ chi Việt, nhưng có nhiều phương ngữ khác nhau.
Người Thổ ở Nghệ An hiện có khoảng trên 63.000 người, cư trú tập trung ở các huyện phía Tây của tỉnh như Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ. Đồng bào Thổ sống cận cư với đồng bào Thái nên đời sống sinh hoạt, văn hóa vật thể, phi vật thể có nhiều nét tương đồng với người Thái địa phương.
Từ xa xưa, người Thổ có nghề trồng bông truyền thống nhưng lại không tự dệt may trang phục cho mình. Hầu hết phụ nữ Thổ đều sử dụng váy của đồng bào Thái (nhóm Thái Man Thanh hay còn gọi là Thái -Thanh) để mặc trong ngày thường (thời xưa) cũng như hội hè, đình đám (xưa, nay). Việc trao đổi này đã trở thành tập quán phản ánh sự gắn bó giữa 2 dân tộc anh em mà trong một truyền thuyết đã nói tới. Truyền thuyết kể rằng: Xưa kia, có 2 chị em sinh ra trong một gia đình người Thái -Thanh. Họ càng lớn, càng xinh đẹp. Rồi cô em đi lấy chồng là người dân tộc Thổ ở làng khác, nhưng do kinh tế quá khó khăn nên phải về nhà ngoại xin chị áo mặc. Người chị cũng nghèo nhưng thương em nên đã cắt cho em vạt dưới chiếc áo của mình. Vì vậy, áo phụ nữ Thái –Thanh hiện nay rất ngắn, còn áo của phụ nữ Thổ thì phải vá phần trên. Đó là kiểu áo 5 thân, phần trên khác màu.
Tuy nhiên, trang phục của mỗi nhóm dân tộc Thổ lại có những đặc điểm khác nhau theo từng vùng cư trú. Chẳng hạn như áo của phụ nữ Thổ vùng Nghĩa Đàn thường dùng chất vải thô, màu trắng, cổ viền, ống tay hẹp như áo cánh của phụ nữ Kinh. Áo của phụ nữ Thổ vùng là loại áo ngắn, ống tay dài, khác màu với thân áo, cổ tròn, khuy áo bấm. Khi mặc, áo thả lỏng ra bên ngoài.
Còn chiếc váy truyền thống của phụ nữ Thổ giống như váy của người Thái -Thanh, chất liệu sợi bông, nhuộm chàm, có sọc viền ngang chân váy. Khi mặc, những đường sọc của váy tạo thành các đường tròn song song quanh trục thân. Chân váy dày hơn thân váy, do người phụ nữ đã sáng kiến đệm thêm một lớp vải trắng phía trong chân váy để giữ váy được bền, thẳng nếp. Phần trên được nối thêm một đoạn vải trắng khoảng 30 phân làm thành cạp váy (váy phụ nữ Thái- Thanh không có đặc điểm này).
Riêng phụ nữ vùng Nghĩa Mai, Nghĩa Lợi, Nghĩa Lộc, Nghĩa Lãm (huyện Nghĩa Đàn) mặc váy vải sợi bông màu đen, có yếm trắng giống như người Kinh. Đi cùng chiếc váy áo là chiếc thắt lưng màu xanh hoặc màu vàng thắt quanh hông, buộc hai đầu vào cạnh hông chứ không buộc thắt nút. Đối với những phụ nữ thuộc gia đình khá giả thì mặc những loại váy bằng chất liệu tơ tằm, một phần ba thân váy và gấu đều dệt hoa văn mỹ miều.
Phụ nữ Thổ không dùng nón, mũ che mưa, nắng mà chủ yếu dùng chiếc khăn vuông khổ rộng khoảng 80 cm bằng vải phin trắng, gấp lại để đội đầu.
Xưa kia, đàn ông dân tộc Thổ mặc giống như người Kinh với bộ quần áo bà ba, không phân biệt màu. Tuy nhiên, cũng có những vùng, đàn ông Thổ chỉ mặc quần trắng, cạp vấn, chiếc áo dài màu đen. Khi đi đám đình, họ đội cả khăn nhiễu màu tím.
Trong đám tang, người Thổ mua lại những tấm vải thô trắng của người Thái để may quần áo. Đồ tang lễ phải may đường kim lộn ngược giống như mặc áo trái. Gấu áo xổ ra te tua. Con cháu đội mũ rơm-thể hiện sự đau đớn, thương tiếc sâu sắc đối với người đã khuất. Khi để tang, người phụ nữ đeo khăn dài trắng như người Kinh.
Nhìn chung, trang phục truyền thống của đồng bào Thổ tương đối giản đơn, bởi đồng bào không nắm được kỹ thuật dệt vải, nhuộm vải, thêu thùa. Ngày nay, chỉ trong những ngày thực sự quan trọng đối với bản làng, phụ nữ Thổ mới mặc trang phục truyền thống. Còn nam giới thì hoàn toàn mặc như người Kinh trong ngày thường cũng như hội, lễ.