Đứng giữa plei (làng) Hơma Glây mà tiếng Chu-ru nghĩa là “ruộng trong rừng” ở vùng Tu Tra, Đơn Dương (Lâm Đồng), tôi ngắm mãi ngọn núi hình yên ngựa trên dãy Pơtơu Gớp. Dãy núi ấy tiếp mạch từ những bổng trầm địa hình cao nguyên. Người Chu-ru coi ngọn núi này là nơi trú ngụ của các vị thần. Ngắm núi và những làn khói đốt đồng thơm mùi rơm rạ khi mùa gặt đã vãn, trò chuyện với những con người cần lao miền thượng đang trải cuộc mưu sinh trong buổi chiều tà, lòng người tìm về xứ sở cũng thấy nao nao. Cuộc phiêu lãng giữa những buôn làng, ruộng rẫy trở nên thú vị hơn khi thả hồn theo dòng cảm thức của một tộc người. Người Chu-ru quần cư giữa triền thấp nhất của miền cao Tây Nguyên, và họ có một số phận lịch sử đặc biệt. Tộc người ấy, cũng giống những ngọn núi nối dài về biển, hình như có cội rễ sâu xa đâu đó ở dưới đồng bằng.
Người già Jơlơng Ya Loan được đồng bào coi là nhà thông thái. Quả vậy, ông và cả bà Ma Wy vợ ông rất rành rẽ những thăng trầm dâu bể tộc người. Ya Loan lý giải tôi nghe về nguồn gốc của tổ tiên ông: “Trong ngôn ngữ xưa, từ “chu ru” có nghĩa là “chui rúc”, “lẩn trốn”. Tổ tiên chúng tôi có lẽ là người miền biển. Vào thời nào đó cách nay đã mấy trăm năm, họ đã phải dứt áo khỏi bản quán, cố hương…” Từ gợi mở của ông Ya Loan, tôi giả thiết, có một biến động nào đó trong lịch sử mà ông bà của người Chu-ru đã phải rời bỏ quê hương để tìm đến nương náu trên miền núi cao này. Có lẽ bởi gốc gác đó mà người Chu-ru bây giờ vẫn nói được tiếng Chăm, giỏi dẫn thủy nhập điền làm ruộng nước, giỏi đánh cá, biết tìm đất sét tốt nặn và nung gốm, biết đúc nhẫn bạc, biết mang hàng hóa sản vật đi buôn bán khắp nơi. Những nghề đó, không phải là thế mạnh của nhiều tộc người Tây Nguyên.
Có một điều thú vị, ông Ya Loan và Ya Ga đều kể về những cuộc “Nau drà” (đi chơi chợ) của người Chu Ru. Những chuyến đi dài hằng tháng trời, lội suối băng rừng, vừa đi vừa chơi, vừa tìm cái ăn vừa tìm cái bán. Hướng họ tìm về là Phan Rang, Phan Thiết bên bờ đại dương. Phải chăng, từ những chuyến về đồng bằng như thế, người Chu-ru thỏa nỗi nhớ biển từ trong tâm thức, cái nhớ cội nguồn mà ngày xưa tổ tiên họ rời bỏ để làm cánh chim thiên di mang theo số phận tộc người lên rừng núi xa xôi?…
So với người Mạ, Cơ-ho, M’nông, Ê-đê… tụ cư lâu đời, người Chu-ru là thành viên mới của Tây Nguyên. Chắc vì nguyên cớ đó mà các tộc khác gọi Chu-ru là “người xâm đất”, ý nói là dân đến từ nơi khác. Thời điểm gọi là “mới” ấy, theo giả thiết, cũng cách đây cỡ bốn, năm thế kỷ. Tiếp lời ông Ya Loan, già Ya Ga cũng nói: “Các cụ xưa kể rằng, tổ tiên chúng tôi thuộc một nhóm con cháu người Chăm, sống ở vùng duyên hải Trung Bộ…” Tôi lật tư liệu, nhân chủng học chứng minh, người Chu-ru và người Chăm đều thuộc chủng tộc Austronesia, cùng chung ngôn ngữ Malayo-Polynesia thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Trang phục, nhạc cụ, ca dao, tục ngữ, truyện cổ, trường ca, những bài dân ca, những điệu dân vũ Chăm và Chu-ru thể hiện rõ mối quan hệ gần gũi, thân thiết giữa hai tộc người, một ở miệt biển và một sống trên rừng núi. Truyền thuyết xứ này cũng kể, một thời binh lửa can qua. Trên bước đường lưu lạc, họ đã chọn miền đất của người Chu-ru để gửi thân nương náu. Phải chăng, bởi tình thân cội rễ nên có sự tin trao? Chuyện xưa đã xa, chỉ biết rằng, huyền thoại về những kho báu vua Chăm ở miền Đơn Dương, Đức Trọng vẫn còn truyền tụng. Những hoàng bào, ấn tín, kiếm lệnh tương truyền là của các vua Chăm từng được người dân Chu-ru lưu giữ trong các ngôi đền rải rác giữa rừng Tà Hine, Tà Năng, Pró, Tu Tra. Kho tiền cổ ở vùng Păng Tiêng, Lạc Dương cũng đã được khai quật…
Bà Ma Wy xúc động cất lên lời hát bằng tiếng Chu-ru, một điệu hát kể nhắc chuyện xa xưa tộc người phảng phất nỗi buồn. Tôi lặng người cảm nhận và nghe giai điệu thật quen, hồ như có nét tương đồng một bài dân ca Chăm mà nhạc sĩ Amư Nhân từng hát tôi nghe trong một lần ghé qua Ninh Thuận. Đó chỉ là sự mẫn cảm thoáng qua. Còn giờ đây, vẫn ngước nhìn lên ngọn Pơtơu Gớp, tôi liên tưởng về một thưở xa xưa. Thưở ấy, giã biệt cố hương, những đoàn người rã rời, xơ xác dắt díu nhau vượt suối sâu, thác dựng tìm đất mới nương thân. Đến hạ nguồn dòng sông Đa Nhim, một bình nguyên giữa miền núi cao, họ như gặp lại hình ảnh quê nhà nơi xứ rừng lạ lẫm. Đoàn người hạ trại. Cuộc dừng chân lịch sử đã trải mấy trăm năm. Họ tự tách mình ra khỏi đồng bằng và biển cả, và an cư cho đến tận bây giờ. Họ bầu Pô plei (trưởng làng), chọn Gru (thầy cúng), Pô ea (người phụ trách nguồn nước) và Mọ boại (bà mụ)…Đó là “hội đồng tự quản” đầu tiên của plei trong thiết chế xã hội cổ truyền. Hậu duệ của đoàn di dân từ cơn biến loạn nay đã có hơn hai trăm ngàn người, hơn chín phần mười vẫn sống bên những sông suối Đạ Nhim, Đạ Yòng vùng Đơn Dương, Đức Trọng như một sự tri ân đất lành mà thưở xưa tổ tiên đã chọn…
Chiều dần buông trên những cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ. Nắng hanh hao đã nhạt, sương chiều nhuộm tím núi rừng. Hoàng hôn sơn cước đẹp như nét vẽ thủy mặc, nhuốm chút tịch liêu. Những plei của người Chu-ru mà tôi đã từng qua đều hao hao dáng nét, giản dị và ấm áp. Những ngôi nhà bên những triền đồi, dưới tán cổ thụ tỏa bóng, mặt trông về cánh đồng kéo tận chân núi. Làng buôn yên bình và an hòa như tính cách của chủ nhân xứ ấy. Mùa này, người con gái Chu-ru vào tuổi tròn trăng cũng tìm kiếm chàng trai ưng bụng để chờ đêm tối đi bắt làm chồng. Rượu cần lại mở, âm nhạc miên man, vòng vũ điệu cộng đồng lại rạo rực đắm say âm hưởng đại ngàn bên bếp lửa rừng. Và cứ thế, dòng mẫu hệ trên miền đất bazan vẫn tiếp nối, quay tròn nhịp điệu phồn sinh theo ngày tháng…
UÔNG THÁI BIỂU