Trong lịch pháp, người Mường cũng chia một năm ra thành 12 tháng. Hằng năm, các thầy mo có tài chiêm tinh thường lên ngọn núi Cột Cờ, hay ra khoảnh đất rộng, thoáng đãng... để nhìn sao đoi (sao tua rua). Tính từ Đông sang Tây, vào lúc trăng lên, nếu sao đoi vào trước mặt trăng thì năm tới sẽ nóng, hạn hán. Nếu sao đoi vào sau mặt trăng thì năm tới sẽ có nhiều mưa bão. Nếu sao đoi vào cùng với mặt trăng thì năm tới thời tiết ôn hòa, cây cối tươi tốt, mùa màng bội thu.
Dựa vào việc nhìn sao đoi, người Mường có cách tính ngày tháng rất độc đáo. Trên mỗi thẻ tre được khắc 30 vạch, mỗi vạch tượng trưng cho một ngày. Tuy nhiên, trong số 30 gạch đó có vạch ngắn, vạch dài, vạch hình mũi tên, vạch có một hoặc hai dấu chấm ở trên...
Ông Bùi Văn Ểu ở xóm Lầm, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình giải thích: "Trên lịch đoi, nếu thấy vạch nào hình chữ vê (v) thì gọi là ngày cá, vạch nào có một chấm ở trên thì gọi là ngày tiểu hao, hai chấm thì gọi là ngày hao, vạch hình mũi tên là ngày mưa bão. Số lượng và mật độ của các ngày này thay đổi theo từng tháng. Tháng nào thấy có nhiều vạch hình mũi tên thì tháng đó rất nhiều mưa bão, nếu gieo mạ, cấy lúa... vào những ngày mưa bão thì sẽ bị hư hỏng hết. Nếu vào ngày cá thì người dân đi đánh cá, mò cua bắt ốc sẽ được nhiều. Trong lịch đoi, tháng 1 là tháng có nhiều ngày cá nhất vì đó là thời điểm mùa cá đẻ. Nếu vào ngày hao thì người dân dù có buôn bán bốn phương, lắm của nhiều tiền thì cũng bị thua lỗ... Khi dựng vợ, gả chồng, người Mường phải nhằm vào những ngày vạch ngắn, đó là ký hiệu của ngày bình thường có thể làm đủ mọi công việc mà không sợ bị thua lỗ, nhưng cũng không phát tài phát lộc được".
Việc tính toán các ngày xấu, tốt trong tháng cũng được dựa trên việc quan sát sao đoi và trăng. Trong mỗi tháng được chia thành 4 tuần là tuần đoi, tuần cối, tuần cây, tuần lồm. Trong mỗi tuần, ngày nào sao đoi đứng ở phía trước mặt trăng là ngày nóng, đứng sau mặt trăng là ngày mưa, có ngày trăng lặn, ngày sao mờ... đó là những ngày xấu. Khi sao đoi đứng ở vị trí sát bên mặt trăng, ánh sao sáng rõ, nền trời trong thì đó là dấu hiệu của ngày tốt.
Với cách tính nguyên hợp trong đó cả lịch Pháp, nên lịch đoi thường chậm hơn lịch âm 15 ngày. Sau khi ăn tết Nguyên đán, người Mường thường ăn tết đoi, hay còn gọi là tết lại. Nét văn hóa này không chỉ là một dấu ấn văn hóa mà còn thể hiện sức sống của lịch đoi trong tâm thức của người Mường.
Biểu hiện rõ nét nhất sự ảnh hưởng của lịch đoi trong sản xuất nông nghiệp ở Mường đó là vai trò của lịch trong lễ hội khai hạ (xuống đồng). Trước đó, đồng bào Mường vẫn làm những công việc đồng áng, tuy nhiên trong tâm thức của người Mường thì chỉ khi được tính theo lịch đoi thì đồng bào mới chính thức bắt tay vào công việc sản xuất vụ mùa mới. Từ lịch đoi mà người Mường đã đúc kết thành những câu tục ngữ: “Kháng Hai, kháng Pa đã hết lọ nà đi là trên rọong (Tháng Hai, tháng Ba đã hết lúa nước thì đi trồng lúa nương).
Ngoài việc xem thế sự để tiến hành làm ăn, cưới hỏi thì người Mường còn sử dụng lịch đoi trong các nghi thức tín ngưỡng. Theo lịch đoi, các ngày tốt cho lễ hội là các ngày phải mát mẻ, xem trong lịch không có điềm xấu. Những ngày tổ chức lễ hội, trên lịch không được khắc vạch thể hiện đó là ngày mưa, ngày bão.
Làm nhà mới là một công việc rất lớn đối với người Mường, chính vì thế từ khi bắt đầu đào móng nhà họ đã phải tiến hành xem ngày tốt để làm. Có một ngày theo quan niệm của người Mường nếu làm nhà sẽ thuận lợi và tốt đẹp, mọi công việc sẽ vẹn toàn nhất. Đó là ngày cây tha. Người Mường có câu: “Là mùa cây tha, là nhà cây trong” (Làm mùa vụ vào ngày cây tha, làm nhà vào ngày cây trong). Họ cho rằng những ngôi nhà được chọn làm vào các ngày ấy thì ngôi nhà sẽ trở nên vững chắc, kín đáo và gia đình sẽ ăn nên, làm ra.
Trong lịch đoi, những tháng cây trong là những tháng phù hợp cho việc cưới xin. Các tháng đó là tháng Hai và tháng Ba (tương ứng tháng 11 và tháng 12 âm lịch). Đây là các tháng được coi là tháng đại an, mọi sự như ý. Người Mường nơi đây thường nói: ‘‘Kháng cây trong thong đong ăn cưới’’ (Tháng cây trong thường đi khắp nơi để ăn cưới). Trong khi tiến hành hôn lễ, thầy cúng cũng phải chọn giờ tốt để đón dâu. Khi về đến nhà thầy cúng tiếp tục xem giờ theo lịch đoi để cúng ông bà tổ tiên.
Lịch đoi góp mặt trong đời sống của đồng bào Mường ở Mường Bi dù ít hay nhiều, sâu sắc hay không tùy vào từng khía cạnh khác nhau. Hiện nay, người Mường vẫn dùng song song 2 loại lịch là lịch tây và lịch đoi.