Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Phục hồi nghề dệt và trang phục của dân tộc Xơ Đăng

Văn Hoa - Tấn Vịnh - 06:44, 23/11/2023

Vào mùa lễ hội, đồng bào Xơ Đăng thường đặt hàng may nhiều đồ thổ cẩm. Họ khoác lên mình những trang phục truyền thống như khố, tấm dồ, váy áo... để dự lễ hội truyền thống như cúng máng nước, ăn trâu huê, mừng lúa mới, đám cưới... Họ mặc bộ trang phục đẹp nhất để dự hội, chúc phúc cho nhau, cầu mong những điều tốt đẹp nhất cho một năm mới an lành. Do vậy, đồng bào luôn có ý thức gìn giữ và phát triển nghề dệt thổ cẩm, nhưng do nhiều tác động nên vài thập niên qua, nghề dệt có nguy cơ mai một dần. Nguồn lực từ Dự án 6 thuộc Chương trình MTQG 1719 đang giúp đồng bào Xơ Đăng giữ lại nét đẹp văn hóa này.

Nghệ nhân dân tộc Xơ đăng huyện Nam Trà My cần mẫn bên khung dệt
Nghệ nhân dân tộc Xơ đăng huyện Nam Trà My cần mẫn bên khung dệt

Thổ cẩm trong cuộc sống hằng ngày của đồng bào

Dân tộc Xơ Đăng có nhiều nhóm địa phương khác nhau như Xơ Đăng, Ca dong, Tơ đrá... cư trú tập trung tại tỉnh Kon Tum và một bộ phận ở huyện Nam Trà My, Bắc Trà My (tỉnh Quảng Nam), huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi). 

Nghề dệt truyền thống của đồng bào Xơ Đăng có từ lâu đời. Các sản phẩm thổ cẩm của bà con có màu sắc, hoa văn đẹp, tinh tế, mang nhiều ý nghĩa biểu tượng khác nhau, thể hiện đời sống văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc. Đồng bào luôn có ý thức gìn giữ và phát triển nghề dệt thổ cẩm, nhưng do nhiều yếu tố phát triển và hội nhập của đất nước tác động đến từng bản làng, kéo theo những sản phẩm công nghiệp, rẻ tiền tràn lan nên dệt thổ cẩm của người Xơ Đăng cũng đứng trước nguy cơ mai một dần.

Trước đây, người Xơ Đăng trồng bông dệt vải. Khung cửi của đồng bảo Xơ Đăng giống như khung dệt của đồng bào Ba Na hay Gia Rai. Quy trình dệt thổ cẩm hoàn toàn thủ công, bằng chính đôi tay khéo léo và tỉ mỉ của người phụ nữ. Họ chủ yếu dệt vải khổ hẹp từ 30 - 40m, nhưng cũng có khi dệt khi rộng tới 80cm. 

Màu sắc được lấy từ củ, lá, vỏ, quả cây rừng giã nhỏ rồi ngâm, ủ lấy nước nhuộm. Màu chàm, màu đỏ từ quả phum nhu (quả cà ri của người Kinh), màu đỏ từ củ nghệ và màu chàm từ lá của cây bằng lăng trộn chung với bùn. Nhưng bây giờ, nguyên liệu chế biến đó không còn nữa, nên được thay thế bằng những sợi len, sợi chỉ đủ màu mua ngoài thị trường.

Những cô gái trẻ luôn hào hứng với việc cắt may, sáng tạo trang phục truyền thống dân tộc
Những cô gái trẻ luôn hào hứng với việc cắt may, sáng tạo trang phục truyền thống dân tộc

Để tạo ra một bộ trang phục hoàn chỉnh rất kỳ công, tốn nhiều thời gian. Dệt một tấm thổ cẩm phải mất nhiều ngày và muốn may một bộ trang phục truyền thống phải mất ít nhất 5 ngày. Vào mùa lễ hội, đồng bào thường đặt hàng may nhiều đồ thổ cẩm. Họ khoác lên mình những trang phục truyền thống như khố, tấm dồ, váy áo... để dự lễ hội truyền thống như cúng máng nước, ăn trâu huê, mừng lúa mới, đám cưới... Họ mặc bộ trang phục đẹp nhất để dự hội, chúc phúc cho nhau, cầu mong những điều tốt đẹp nhất cho một năm mới an lành.

Hỗ trợ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

Trước nguy cơ mai một trang phục truyền thống, Hội đồng Nhân dân huyện Nam Trà My triển khai Nghị quyết số 12/2022/NQ-HĐND ngày 13/7/2022 về “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc trưng các dân tộc huyện Nam Trà My giai đoạn 2023 - 2025 định hướng đến năm 2030”. Đây cũng là một trong những nội dung của Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 (Chương trình MTQG 1719). Theo đó, huyện vùng cao này đã tiến hành sưu tầm, phục dựng trang phục, trang sức của 3 nhóm dân tộc chính trên địa bàn gồm: Ca dong, Xơ Đăng và B’hnoong. 

Huyện đã tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo để các già làng, nghệ nhân, nhà khoa học, lãnh đạo có am hiểu về dân tộc học, đưa ra ý kiến để tiến đến thống nhất chung về mẫu trang phục, trang sức của từng dân tộc... nhằm đưa vào bảo tồn trong cộng đồng. Qua nhiều lần tiếp thu, chỉnh sửa, đến tháng 9 năm 2023 đã hoàn chỉnh trang phục, trang sức của đồng bào Ca Dong, Xơ Đăng, B’hnoong để đưa vào sử dụng trong lễ hội và hằng ngày, cũng như đưa trang phục truyền thống vào trường học.

Trang phục cách tân của nam nữ dân tộc Xơ Đăng, huyện Nam Trà My
Trang phục cách tân của nam nữ dân tộc Xơ Đăng, huyện Nam Trà My

Với chủ trương đó, đến nay, trên địa bàn huyện Nam Trà My đã phục hồi được nghề dệt và “xóa điểm trắng” về sắc phục truyền thống của các nhóm dân tộc. Mỗi dân tộc đều định hình, khôi phục được trang phục riêng với sắc màu, hoa văn và kiểu dáng đặc trưng. Trang phục của đồng bào Ca Dong có màu đen và màu chàm. Họa tiết hoa văn trên trang phục thường được trang trí chạy dọc theo chiều dài của áo, váy, khố với ba màu vàng, trắng, đỏ.

Tìm lại nét đẹp xưa

 Phụ nữ Ca Dong mặc áo chui đầu, không có tay áo, quấn váy và dây vải buộc ở bụng để giữ cho chiếc váy khỏi tuột. Trang phục của phụ nữ Ca Dong có chồng và lớn tuổi, ngoài dùng dây thắt lưng còn dùng đồ trang sức bằng chuỗi dây đồng dài, có gắn lục lạc quấn vào lưng quần. Kèm theo nhiều đồ trang sức bằng đồng, vòng bạc ở cổ, tay để tăng thêm vẻ đẹp mỗi khi tham gia lễ hội.

Trang phục đàn ông và thanh niên Ca Dong gồm: Khố và tấm choàng hình chữ X. Khố là một tấm vải dài, khổ hẹp được dệt trên nền chàm đen, với ba màu: đỏ, trắng và vàng chạy dọc theo chiều dài của thân khố và hai bên thân. Chân khố được kết nối với những tua màu đỏ. Đối với trang phục truyền thống của đồng bào Xơ Đăng vẫn nổi bật lên gam màu đen và màu chàm. Hoa văn trên trang phục chủ yếu được trang trí xung quanh áo, váy. 

Áo được may theo kiểu dáng cổ tròn, không có tay, toàn bộ chiếc áo chỉ có hai đường khâu kín đáo ở hai bên nách, mặt trong rất láng vì được mài nhẵn, còn mặt ngoài sần sùi hơn. Trang phục nam giới dân tộc Xơ Đăng là khố, áo chui đầu, tay áo được khoét sát nách. Phụ nữ mặc váy quấn, khăn đội đầu, khăn vai..., áo là kiểu áo chui đầu, không có tay.

Trang phục truyền thống của dân tộc Xơ Đăng ở xã Trà Nam, huyện Nam Trà My
Trang phục truyền thống của dân tộc Xơ Đăng ở xã Trà Nam, huyện Nam Trà My

Một phong cách đặc biệt nữa là, thiếu nữ Xơ Đăng đến tuổi trưởng thành thường dùng tấm choàng khoác qua người, như một dấu hiệu cho những chàng trai biết mình chưa xây dựng gia đình để có thể trò chuyện, tìm hiểu. 

Khi về nhà chồng, người con gái mang theo tấm khăn vai này, và giữ gìn như một vật kỷ niệm quý giá của thời con gái. Tấm choàng được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau. Để có tấm choàng, họ dệt 2 tấm vải sau đó ghép lại. Trên mặt phải của tấm choàng được trang trí hoa văn hình quả trám xen kẽ với các dải màu đen, trắng, đỏ.

Người Xơ Đăng còn sử dụng các loại hình trang sức như vòng đồng, vòng bạc, chuỗi hạt cườm, đặc biệt là các loại trang sức cỗ xưa như nanh, vuốt thú.... So với các nhóm dân tộc khác trong huyện Nam Trà My, nhóm B’hnoong hầu như không còn lưu truyền, sử dụng trang phục truyền thống, thậm chí cả trong các lễ hội ở làng, nên việc phục hồi rất khó khăn. 

Tuy nhiên, với nhiều lần tham khảo ý kiến của các già làng, nghệ nhân am hiểu truyền thống dân tộc để “tìm lại” vốn xưa. Từ đó, bộ trang phục truyền thống của họ đã được phục hồi. Nam giới có áo, khố, tấm choàng; nữ giới có áo, váy liền thân, váy ngắn 1/3 so với chân - dưới đầu gối, màu chủ đạo là màu xanh lục rin.

Túi thổ cẩm và sắc phục lễ hội của các cô gái Xơ Đăng
Túi thổ cẩm và trang phục lễ hội của các cô gái Xơ Đăng

Chỉ trong thời gian không lâu, trang phục truyền thống của các nhóm dân tộc chẳng những được phục hồi, mà còn được phát huy, đi vào thực tiễn cuộc sống. Tại Lễ hội Sâm Ngọc Linh năm 2023, Ngày hội Văn hóa Thể thao các dân tộc miền núi Quảng Nam lần thứ XX, năm 2023, tại huyện Phước Sơn…, các nghệ nhân, diễn viên các dân tộc huyện Nam Trà My đã có trang phục “chuẩn” để trình diễn nghệ thuật, thi trang phục truyền thống.

Từ một địa bàn vùng cao gần như đánh mất nghề dệt và trang phục truyền thống, huyện Nam Trà My đã phục hồi thành công một loại hình di sản quý báu của các dân tộc. Hiện nay, nghề dệt xuất hiện ở Trà Cang, Trà Leng, Trà Nam, Trà Mai. Các nghệ nhân lớn tuổi truyền dạy nghề dệt, thêu thùa, may mặc cho các cô gái trẻ. Nghề dệt may cũng góp phần mang lại nguồn lợi kinh tế cho các hộ gia đình. Người dân huyện vùng cao cũng thấy tự hào, cùng với chính quyền gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc.

Tin cùng chuyên mục
Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Hàng loạt tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, trong đó nổi cộm là địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế..., đã tạo "đất sống" cho những hủ tục, tập quán lạc hậu tồn tại. Đây chính là những thách thức lớn làm ảnh hưởng đến quá trình nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây xứ Nghệ. Thực tế, đã có nhiều giải pháp khắc phục hạn chế được đưa ra, trong đó là việc tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân.