Đảm bảo cơ sở và chất lượng giáo dục
Theo báo cáo, năm học 2021 - 2022, toàn vùng có 3.984 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên. Đến năm 2022, trong vùng có 9 cơ sở giáo dục đại học và phân viện của các trường đại; 4 trường cao đẳng sư phạm; 107 cơ sở giáo dục nghể nghiệp. Tỷ lệ học học đúng độ tuổi ở cả ba cấp học tại các tỉnh Tây Nguyên đều gia tăng. Năm học 2020 - 2021, tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,93%; tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi cấp THCS đạt 90%; tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương đạt 68,3%.
Công tác xóa mù chữ được các địa phương đẩy mạnh, trong đó ưu tiên xóa mù chữ cho đồng bào DTTS. Đến nay, về cơ bản toàn vùng đã đạt được mục tiêu xóa mù chữ, 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện, xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1. Tỷ lệ người DTTS biết chữ độ tuổi 15 - 60 là 97,6%.
Ngoài phát triển về cơ sở giáo dục, các địa phương Vùng Tây Nguyên tích cực đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, chăm lo phát triển đội ngũ nhà giáo. Năm học 2021 - 2022, tỷ lệ trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia của vùng là 42,23%; trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia là 59,14%; trường THCS đạt chuẩn quốc gia đạt 50,49%; trường THPT đạt chuẩn quốc đạt 35,58%. Toàn vùng có 66,9% phòng học được kiên cố hóa.
Ngành GD&ĐT các tỉnh Tây Nguyên đã tích cực chăm lo, phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu phát triển GD&ĐT của địa phương. Bên cạnh việc được hưởng các chế độ, chính sách chung đối với nhà giáo, đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý công tác tại vùng DTTS, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đã được các cấp chính quyền có chính sách ưu tiên, động viên các thầy cô yên tâm công tác.
Nhờ đó, chất lượng giáo dục và đào tạo ngày càng cải thiện. Năm học 2021 - 2022, toàn vùng tỷ lệ trẻ ở nhà trẻ suy dinh dưỡng, là 4,84%, tỷ lệ trẻ mẫu giáo suy dinh dưỡng là 8,24%. Trung bình tỷ lệ học sinh Tiểu học lên lớp của khu vực là 98,29%; cấp THCS, tỷ lệ học sinh lên lớp trung bình là 98,04%; đối với cấp THPT, tỷ lệ học sinh lên lớp trung bình là 98,18%.
Tại Hội nghị, đại diện các địa phương, trường đại học trong khu vực Tây Nguyên đã phát biểu tham luận về các vấn đề về cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, tình trạng thiếu giáo viên, giáo dục vùng đồng bào DTTS, nâng cao giáo dục đào tạo, khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ…
Phát triển hệ thống giáo dục PTDT nội trú
Các địa phương trong vùng đã chủ động thực hiện quy hoạch mạnh lưới các trường PTDT nội trú nhằm đáp ứng nhu cầu tạo nguồn đào tạo nhân lực người DTTS. Về cơ bản, tại các huyện có từ 10.000 người DTTS trở lên đã có trường PTDT nội trú.
Năm học 2021 - 2022, toàn vùng có 59 trường PTDT nội trú và 68 trường PTDT bán trú. Trong đó, có 49 trường PTDT nội trú được công nhận đạt Chuẩn Quốc gia. Các trường PTDT nội trú, bán trú của vùng đã triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông theo đúng quy định và hướng dẫn của ngành.
Hệ thống trường PTDT nội trú và bán trú đã và đang làm thay đổi tích cực chất lượng giáo dục ở vùng Tây Nguyên. Sự phát triển ổn định về quy mô, số lượng và chất lượng đã khẳng định được vai trò to lớn của hệ thống trường này trong việc huy động tối đa học sinh tiểu học và THCS trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục; góp phần củng cố và duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng DTTS, miền núi ở vùng Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, các trường PTDT nội trú và bán trú còn tích cực tổ chức các nội dung giáo dục đặc thù nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh DTTS. Quan tâm việc dạy tiếng DTTS cho học sinh người DTTS. Tính đến năm học 2021 - 2022, toàn vùng Tây Nguyên có 112 trường, 844 lớp, với 15.924 học sinh; 126 giáo viên dạy tiếng DTTS, trong đó, có 111 giáo viên là người bản ngữ.
Nhờ đó, chất lượng giáo dục được cải thiện qua từng năm học. Năm học 2021 - 2022, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS của các trường PTDT nội trú đạt 99,7%; tốt nghiệp THPT của các trường PTDT nội trú đạt 98,7%. Chất lượng giáo dục các trường PTDT nội trú và trường phổ thông có học sinh bán trú có nhiều chuyển biến rõ rệt. Tỷ lệ học sinh bán trú cấp Tiểu học hoàn thành cấp học đạt 98,9%, học sinh bán trú cấp THCS hoàn thành cấp học đạt 92%.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy Ban Dân tộc Hầu A Lềnh nhấn mạnh: Tây Nguyên là vùng có nhiều khác biệt so với những vùng khác. Trên tinh thần cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội trong từng giai đoạn lịch sử. Trong đó, Nghị quyết 120 của Quốc hội về Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 đã thiết kế riêng dự án cho giáo dục với 4 Tiểu dự án, mục tiêu cụ thể.
Riêng giáo dục DTTS, các tỉnh Tây Nguyên quan tâm vấn đề dạy chữ cho người DTTS để bảo tồn chữ viết. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chuẩn hóa giáo trình, nâng cao ý thức của học sinh cũng như phụ huynh; tạo điều kiện cho người DTTS được tham gia đào tạo tạo nguồn cán bộ rất quan trọng để phát triển nguồn nhân lực tại chỗ chất lượng; quan tâm đào tạo nghề phù hợp với từng DTTS ở từng địa phương, cán bộ tham gia hệ thống chính trị bảo đảm tỷ lệ phù hợp tỷ lệ dân số ở từng địa phương; đa dạng hóa về mặt cơ cấu vì đối với giáo viên người DTTS vì vùng Tây Nguyên có nhiều thành phần dân tộc. Bên cạn đó, các tỉnh Tây Nguyên cũng cần quan tâm đào tạo giáo viên ngay tại chỗ để lấp đầy những nơi thiếu giáo viên. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho ngành GD&ĐT các tỉnh Tây Nguyên.
Thời gian tới, UBDT cùng phối hợp với Bộ GD&ĐT tiếp tục nghiên cứu tháo gỡ khó khăn, vướng mắc góp ý sửa đổi chính sách giáo dục phù hợp tình hình thực tế từng giai đoạn, nhất là giáo dục trong đồng bào DTTS.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn ghi nhận những thành quả mà các tỉnh Tây Nguyên đã đat được, đồng thời tiếp thu ý kiến tham luận của các đại biểu tại Hội nghị. Bộ Trưởng Nguyễn Kim Sơn đề nghị các địa phương trong Vùng tiếp tục triển khai hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông 2018; chú trọng đầu tư cơ sở, vật chất kiên cố hóa trường học; bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; quy hoạch mạng lưới trường, lớp hợp lý hơn; nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nhân lực đồng bào DTTS tại chỗ, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục phổ thông của Tây Nguyên phải gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của khu vực, qua đó góp phần quan trọng triển khai thực thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng nhất là Nghị quyết số 23 ngày 6/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyễn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra.