Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Ninh Thuận: Phấn đấu đến năm 2030 cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn

T.Minh - 16:17, 16/09/2022

Đến năm 2030, thu nhập bình quân của người DTTS bằng 1/2 bình quân chung của cả tỉnh; giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn… đó là những mục tiêu cơ bản tỉnh Ninh Thuận hướng tới, trong Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: Từ 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh.

Phấn đấu đến năm 2030, thu nhập bình quân đầu người tăng 2 lần so với năm 2020. (Trong ảnh: Trồng nho mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Ninh Thuận)
Phấn đấu đến năm 2030, thu nhập bình quân đầu người tăng 2 lần so với năm 2020. (Trong ảnh: Trồng nho mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân Ninh Thuận)

Để cụ thể hóa Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết số 19-NQ/TU ngày 25/1/2022 của Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh khóa XIV và Nghị quyết số 48/NQ-HĐND ngày 30/8/2022 của HĐND tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) vùng đồng bào DTTS và miền núi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Ngày 11/9/2022, ông Nguyễn Long Biên, Ủy viên Thường Tỉnh ủy Ninh Thuận đã ký Quyết định số 496/QĐ-UBND ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh.

Theo Kế hoạch, Ninh Thuận hướng đến mục tiêu, đến năm 2025 giảm 50% xã, thôn đặc biệt khó khăn (ĐBKK); thu nhập bình quân đầu người tăng 2 lần so với năm 2020; giảm tỷ lệ hộ nghèo trên 3%/năm; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 99% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 98% số hộ đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% số hộ đồng bào DTTS được xem truyền hình và nghe đài phát thanh.

Hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; sắp xếp, bố trí, ổn định 90% hộ di cư không theo quy hoạch; quy hoạch sắp xếp, di dời định cư 60% số hộ DTTS đang cư trú phân tán, rải rác khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào.

Tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường trên 98%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học đến trường 97%, học THCS 95%, học THPT 60%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông 90%.

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS gắn với phát triển du lịch. (Trong ảnh: Điệu múa dâng thần Po cei Tathun trong Lễ hội Rija Nagar của đồng bào Chăm Ninh Thuận)
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS gắn với phát triển du lịch. (Trong ảnh: Điệu múa dâng thần Po cei Tathun trong Lễ hội Rija Nagar của đồng bào Chăm Ninh Thuận)
Có 98% đồng bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%.

Có 50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người DTTS. 80% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 50% thôn có đội văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ) truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng.

Định hướng đến năm 2030, thu nhập bình quân của người DTTS bằng 1/2 bình quân chung của cả tỉnh; giảm hộ nghèo xuống dưới 10%. Cơ bản không còn các xã, thôn ĐBKK; 70% số xã vùng đồng bào DTTS và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới. Hằng năm thu hút ít nhất 3% lao động sang làm các ngành, nghề. Đến năm 2030, có 40% lao động người DTTS biết làm các ngành, nghề: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ; phấn đấu có 80% số hộ nông dân người DTTS làm kinh tế nông, lâm nghiệp hàng hóa. Trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và đời sống của người dân.

Để thực hiện đạt những mục tiêu đề ra, UBND tỉnh xác định có 10 dự án thành phần để lồng ghép triển khai, trong đó: Dự án 1, tập trung giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho người dân. Dự án 2, thực hiện quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết. Dự án 3, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, gắn với bảo vệ rừng và nâng cao thu nhập cho người dân.

Dự án 4, đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào DTTS và các đơn vị sự nghiệp công lập của lĩnh vực dân tộc. Dự án 5, phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng tâm là củng cố phát triển các trường PTDT nội trú và xóa mù chữ; giải quyết việc làm cho người lao động; đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ triển khai Chương trình ở các cấp.

Dự án 6, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS gắn với phát triển du lịch. Dự án 7, thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người DTTS; phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em. Dự án 8, thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.

Củng cố phát triển các trường PTDT nội trú và xóa mù chữ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. (Trong ảnh: Học sinh Trường PTDT Nội trú Pinăng Tắc trình diễn tiết mục đánh Mãla trong Lễ khai mạc Hội trại truyền thống các trường PTDT nội trú lần thứ 12)
Củng cố phát triển các trường PTDT nội trú và xóa mù chữ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. (Trong ảnh: Học sinh Trường PTDT Nội trú Pinăng Tắc trình diễn tiết mục đánh Mãla trong Lễ khai mạc Hội trại truyền thống các trường PTDT nội trú lần thứ 12)

Dự án 9, đầu tư phát triển nhóm DTTS rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn, để giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào DTTS. Dự án 10, đẩy mạnh truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào DTTS và kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình.

Trên cơ sở nội dung kế hoạch đề ra, UBND tỉnh giao Ban Dân tộc tỉnh chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và địa phương có liên quan triển khai thực hiện kế hoạch và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện, đồng thời, tổ chức sơ kết, tổng kết, tổng hợp kết quả thực hiện, định kỳ hằng năm báo cáo Ủy ban Dân tộc, UBND tỉnh theo quy định.

Các sở: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh phối hợp với Ban Dân tộc và các đơn vị có liên quan tham mưu giao chỉ tiêu và cân đối, phân bổ vốn đầu tư nguồn ngân sách trung ương và vốn đối ứng ngân sách tỉnh, đồng thời tham mưu UBND tỉnh trình cấp có thẩm quyền phân bổ vốn chi tiết trung hạn và hằng năm; triển khai thực hiện chính sách, giải pháp bảo đảm huy động đủ mức vốn tín dụng chính sách tối thiểu để thực hiện Chương trình.

UBND tỉnh cũng đề nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia tổ chức thực hiện và giám sát quá trình tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch đạt hiệu quả. Các sở, ban, ngành thuộc tỉnh, UBND cấp huyện căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, tập trung rà soát, xác định địa bàn, đối tượng, nội dung chính sách để xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm nhằm triển khai tổ chức thực hiện bảo đảm không chồng chéo, trùng lắp với các chương trình, dự án, đề án khác theo phân cấp quản lý.

Tin cùng chuyên mục
Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Hàng loạt tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, trong đó nổi cộm là địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế..., đã tạo "đất sống" cho những hủ tục, tập quán lạc hậu tồn tại. Đây chính là những thách thức lớn làm ảnh hưởng đến quá trình nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây xứ Nghệ. Thực tế, đã có nhiều giải pháp khắc phục hạn chế được đưa ra, trong đó là việc tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân.