Chuẩn bị ao nuôi
Địa điểm nuôi thuộc vùng triều, vùng ngập mặn. Nơi có nguồn nước tốt, không bị ô nhiểm và ít ảnh hưởng bởi sóng gió. Độ mặn của nước dao động từ 5 - 15‰. Chất đáy bùn cát tỷ lệ khoảng 60/40, không nên chọn nơi đất quá nhiều cát hay có độ pH thất thường, ảnh hưởng không tốt cho nuôi rạm. Ao có bờ bao chắc, không dò rỉ. Yêu cầu ao nuôi phải có hai cống cấp và thoát nước được dễ dàng.
Trước khi nuôi, ao cần được tháo cạn, tu sửa lại các bờ xung quanh, bịt các lỗ rò làm thất thoát nước trong khi nuôi. Với các ao cũ, tích tụ nhiều bùn cần vét sạch để hạn chế sự tác động của chất thải tích tụ gây bệnh. Sau khi tu sửa và nạo vét nền đáy tiến hành bón vôi để khử trùng, diệt tạp trong ao nuôi. Lượng vôi bón trong đầm tuỳ theo độ pH của nền đáy và loại vôi.
Vôi bón nên rải đều khắp ao, bao gồm cả bờ và đê bao. Tiến hành phơi ao từ 5 - 7 ngày. Tháo cạn với mức nước từ 10 - 15 cm và diệt các sinh vật gây hại cho rạm. Rửa đầm thêm 3 - 5 ngày nữa, rồi mới cấp nước gây màu.
Cấp nước gây màu: Cấp thêm nước trong ao mỗi lần từ 20 - 30 cm nước cho đến khi đạt mức nước cần thiết. Bón phân gây màu cho nước bằng phân Ure và phân khoáng tổng hợp NPK liên tiếp 3-5 ngày với khối lượng mỗi loại phân trên từ 0,5 - 1 kg/ngày. Sau 4 - 7 ngày, nước có màu xanh vỏ đỗ hoặc nâu thì tiến hành thả rạm giống vào nuôi.
Chọn giống
Bà con cần chọn rạm giống có kích cỡ đồng đều, phản xạ nhanh với tác động bên ngoài, định hướng nhanh, vận động linh hoạt. Rạm cần có màu sắc tươi tự nhiên, không có dấu hiệu lạ trên cơ thể, nguyên vẹn, cứng vỏ, không có dị tật, không có dấu hiệu của bệnh và không bị các sinh vật bám ở vỏ ngoài. Kích cỡ mai của rạm từ 0,6 cm trở lên.
Kỹ thuật nuôi rạm thương phẩm
Khi chọn được rạm giống có thể vận chuyển bằng cách dùng khay nhựa thông dụng cỡ: 20 x 25cm. Cho vào khay một lớp cát mịn, sạch 0,5 cm. Mỗi khay cho 500 con, vận chuyển trong 8-16giờ. Không để rạm bị lật ngửa, các khay xếp chồng lên nhau cho vào thùng xốp, bao xác rắn vận chuyển.
Về ao nuôi cần kiểm tra nếu độ mặn của ao nuôi xấp xỉ độ mặn vùng thu mua thì không phải thuần dưỡng rạm nuôi, nếu độ mặn ở hai vùng này có sự chênh lệch trên 5‰ nhất thiết phải thuần dưỡng rạm giống. Mật độ thả: 20 - 30con/m2.
Thay nước ao nuôi theo thủy triều: mỗi lần thay 20 - 30% lượng nước. Thường xuyên kiểm tra độ mặn.
Thức ăn của con rạm ngoài tự nhiên là giáp xác, ốc, cá nhỏ và động vật phù du như tảo, rong rêu. Trong nuôi trồng con rạm thì bà con dễ dàng kiếm nguồn thức ăn dồi dào. Do loài này ăn ít và nhanh phát triển. Các loại thức ăn bà con nên chuẩn bị trước khi nuôi là: Thức ăn công nghiệp chiếm 60% tổng lượng thức ăn. Thức ăn tự nhiên chiếm 40% tổng lượng thức ăn.
Nên cho rạm ăn 4 lần trong ngày. Cần quan sát kỹ tránh trường hợp không đủ thức ăn cho rạm. Trộn vitamin C vào thức ăn, giúp con rạm có đề kháng khỏe hơn.
Phòng trừ bệnh cho rạm
Con rạm là loài giáp xác xuất hiện nhiều ở vùng đồng ruộng. Cùng với tập tính sống hiền lành, đề kháng ổn định thì chúng ít nhiễm bệnh. Tuy nhiên, nhiều năm trở lại đây, người dân phun thuốc trừ sâu, diệt cỏ nhiều. Dẫn đến loài rạm chết và nhiễm bệnh rất nhiều. Sau đây là những căn bệnh bà con nên phòng tránh khi nuôi:
Bệnh đen mang: Đây là căn bệnh mang rạm bị đen do sắc tố Melanin phát triển tại các mô của mang bị phá huỷ do các ký sinh trùng sán lá đơn chủ (xuất hiện nhiều sau khi thay nước có độ mặn thấp, nhất là sau các trận mưa lớn), nấm Fusarium spp, vi khuẩn dạng sợi Vibrio spp, hay khi nồng độ các khí độc amoniac và sulfur hydro cao trong môi trường ao nuôi.
Cần tắm cho rạm bằng formol với nồng độ 16 - 30ml/m3 nước trong 15 - 20 phút có sục khi, thời gian điều trị 6 - 8 ngày hoặc tắm cho cua bằng dung dịch sulfat đồng với nồng độ 0,6 g/m3 nước, mỗi lần tắm ngâm trong 6 - 8 phút, có sục khi. Thời gian điều trị 6 - 8 ngày.
Dùng vôi rải đều trên ao nuôi để diệt ký sinh trùng, vì khuẩn, nấm... Khi có dấu hiệu bệnh hay thời tiết mưa kéo dài, dùng thuốc kháng sinh như Nofloxacin, Nalidixic axit, Ciprofloxacin thường xuyên để phòng trị bệnh bằng cách trộn vào thức ăn hàng ngày với liều lượng từ 40 - 60 g/kg thức ăn. Thời gian phòng bệnh thường 6 - 8 ngày.
Bệnh đốm trắng, vàng trên mai: Bà con cần phân biệt rõ nguyên nhân do bệnh gây ra hay chỉ là các dấu hiệu của việc no nước trước khi lột. Nếu rạm có đốm trắng vàng nhưng vẫn biểu hiện khỏe mạnh, vận động và cảm giác bắt mồi nhanh thì không đáng lo ngại do đó là các biểu hiện sinh lý trước khi lột xác. Màu sắc này, có thể do trong nước giàu Cavà Mghay vôi bột bám là bình thường. Các đốm trắng này sẽ hết sau khi lột xác.
Trong trường hợp rạm nhiễm bệnh đốm trắng - vàng thực sự do các vi khuẩn, vi sinh vật... hay do nước lâu ngày không thay và bị ô nhiễm nặng
Cần phòng trị bệnh cho rạm bằng cách sử dụng thức ăn tươi và cho ăn đầy đủ, thức ăn thừa phải dọn sạch. Trộn thêm một số chất kháng sinh Norfloxacin, Nalidixic axit, Ciprofloxacin... và các vitamin A, C, E, B6, B12... bổ sung vào thức ăn hàng ngày để tăng tính chống chịu cho rạm.
Thu hoạch
Khi trọng lượng rạm đạt cỡ 18 gam/con trở lên có thể thu hoạch.