Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng Đồng bào DTTS và Miền núi

Củng cố phên giậu quốc gia

Sỹ Hào - 10:18, 07/06/2019

Báo Dân tộc và Phát triển số 1523 ra ngày 05/6/2019 đã phản ánh, hỗ trợ tạo sinh kế tại chỗ là giải pháp quan trọng để đồng bào sinh sống tại địa bàn biên giới xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế-xã hội địa phương, từ đó xây dựng vùng “phên dậu” ngày càng vững chắc. Nhưng sinh kế của người dân sẽ không bền vững nếu địa phương không có cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ.

Bài 2: Cơ sở hạ tầng-Bài toán khó giải

Giao thông đi lại khó khăn khiến người dân làng Pờ Yầu (Gia Lai) quanh quẩn với cái nghèo. (Ảnh TL) Giao thông đi lại khó khăn khiến người dân làng Pờ Yầu (Gia Lai) quanh quẩn với cái nghèo. (Ảnh TL)

Đạt chuẩn vẫn “nợ” tiêu chí!

Để phát triển kinh tế-xã hội ở các địa bàn khó khăn, nhất là ở vùng DTTS và miền núi, thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm,…) là điều kiện cơ bản. Qua nhiều giai đoạn thực hiện Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã ĐBKK vùng DTTS và miền núi (Chương trình 135) và nguồn lực từ nhiều chương trình, dự án khác, nhìn chung cơ sở hạ tầng ở khu vực này đã được đầu tư khá đồng bộ.

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều địa phương thiếu đường giao thông, thiếu điện lưới, thiếu cơ sở trường lớp kiên cố, nhất là ở đơn vị hành chính cấp thôn bản. Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, hiện trong tổng số 48.364 thôn bản thuộc vùng DTTS và miền núi thì vẫn còn 13.539 thôn chưa có đường giao thông được cứng hóa (chiếm tỷ lệ 28%); vẫn còn 1.978 thôn chưa được sử dụng điện lưới quốc gia (sử dụng các loại điện khác) và 1.422 không có điện.

Đáng chú ý, không ít xã biên giới dù đã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) nhưng cơ sở hạ tầng vẫn chưa được đầu tư đồng bộ. Như Lộc Thạnh, một trong 7 xã biên giới của huyện Lộc Ninh (Bình Phước), mặc dù đã đạt 19/19 tiêu chí, nhưng trên địa bàn vẫn còn 26km đường giao thông nông thôn (chủ yếu là đường liên ấp, ngõ, xóm) chưa được cứng hóa.

Hay xã biên giới Lộc Tấn (cũng thuộc huyện Lộc Ninh), đầu năm 2019, xã đã đón nhận bằng công nhận đạt chuẩn NTM của tỉnh. Nhưng một số ấp trên địa bàn xã vẫn chưa có điện lưới; thậm chí ở ấp K57, tỷ lệ hộ sử dụng điện mới chỉ đạt 30%. Ngoài ra, toàn xã vẫn còn 64km đường giao thông nông thôn chưa được cứng hóa…

Đường giao thông, điện lưới được xem là “huyết mạch” của nền kinh tế. Trong xây dựng NTM, để hoàn thành hai tiêu chí này cả hai xã Lộc Tấn và Lộc Thạnh của huyện Lộc Ninh phải cần một nguồn vốn rất lớn. Khi ngân sách địa phương còn hạn hẹp thì Lộc Tấn và Lộc Thạnh rất cần nguồn lực từ các chương trình, dự án từ ngân sách Trung ương.

Sinh kế bấp bênh vì hạ tầng thiếu

Đời sống của người dân vùng DTTS và miền núi vẫn còn nhiều khó khăn. (Ảnh chụp tại thôn Nà Ái, xã Quan Bản, huyện Lộc Bình, Lạng Sơn) Đời sống của người dân vùng DTTS và miền núi vẫn còn nhiều khó khăn. (Ảnh chụp tại thôn Nà Ái, xã Quan Bản, huyện Lộc Bình, Lạng Sơn)

Không chỉ riêng hai xã biên giới Lộc Tấn, Lộc Thạnh của huyện Lộc Ninh (Bình Phước) mà nhiều xã biên giới của các tỉnh thành khác cũng gặp khó trong hành trình xây dựng NTM. Như xã Thuận Hà của huyện Đăk Song (Đăk Nông), đến thời điểm này, xã đã đạt 17/19 tiêu chí xây dựng NTM, phấn đấu “về đích” trong năm 2019 này. Nhưng hiện toàn xã mới chỉ cứng hóa được 31/47,5km đường trục thôn, mới có 30/50km đường ngõ xóm được bê tông hóa.

Tương tự xã Thuận Hạnh, xã biên giới Thuận Hà (cũng thuộc huyện Đăk Song); toàn xã có 1.713 hộ thì hiện vẫn còn khoảng 700 hộ phải sử dụng điện tạm bợ…

Những xã biên giới gần “cán đích” NTM còn khó khăn như vậy thì với những xã chưa tính đến kế hoạch “về đích” thì có thể nói là khó khăn càng chồng chất. Điều này đã hạn chế nỗ lực phát triển kinh tế của người dân ở các xã biên giới; xã ĐBKK, dù họ đã có sinh kế trong tay.

Như ở xã Lơ Pang của huyện Mang Yang (Gia Lai), có một ngôi làng nằm trên độ cao 800m so với mực nước biển-nơi sinh sống của 118 hộ, trong đó gần 99% là đồng bào dân tộc Ba Na. Đó là làng Pờ Yầu.

Làng Pờ Yầu có đến 184 ha cây bời lời, 12,2ha sắn, 33,1ha lúa, gần 3ha cà phê, 1,6ha hồ tiêu và 4,1ha cây ăn quả; đàn gia súc, gia cầm của làng hơn 400 con. Ấy vậy, tính đến cuối năm 2018, làng vẫn còn 77 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 65,25%); 38 hộ cận nghèo (chiếm tỷ lệ 32,2%); vị chi số hộ không nghèo của làng chưa đến 3%.

Đường giao thông, điện lưới là “huyết mạch” để nối vùng khó. (Ảnh chụp tại trung tâm xã Thạch Đạn, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) Đường giao thông, điện lưới là “huyết mạch” để nối vùng khó. (Ảnh chụp tại trung tâm xã Thạch Đạn, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn)

Nguyên nhân là, làng Pờ Yầu dù chỉ cách trung tâm xã Lơ Pang 8km, nhưng nằm trên núi cao, tuyến đường độc đạo chưa được đầu tư xây dựng nên người dân phải bán nông sản cho thương lái vào thu mua tại làng, vì thế bị ép giá. Nếu đưa về xã tiêu thụ, 1kg bời lời bán được 11 nghìn đồng, nhưng bán cho thương lái chỉ được 3,5 nghìn đồng. Tương tự, sắn tươi tại trung tâm xã có giá 2 nghìn đồng/kg nhưng thương lái mua tại làng chỉ khoảng 1 nghìn đồng/kg. Dẫu biết vậy nhưng người dân vẫn phải bán vì không phải ai cũng có thể đưa nông sản xuống trung tâm xã.

Dẫn chứng như vậy để thấy, việc người dân ở khu vực biên giới, vùng ĐBKK dù đã có sinh kế, nhưng nếu không có đường giao thông, không có điện lưới,... thì sinh kế đó vẫn chỉ là tạm thời, rất khó để vươn lên xóa đói giảm nghèo.

Theo danh sách ban hành kèm theo Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ, cả nước có 435 xã biên giới. Đây hiện vẫn là những địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội rất khó khăn; đặc biệt cơ sở hạ tầng thiết yếu (điện lưới, đường giao thông,…) ở những địa bàn này vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu tính kết nối. Bởi vậy, việc xây dựng những cơ chế, chính sách phù hợp để huy động nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng cho những địa bàn này là rất cần thiết, từ đó tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội vùng biên.


Tin cùng chuyên mục
Cơ hội nâng cao chất lượng dân số vùng miền núi Nghệ An: Từ nguồn lực Chương trình MTQG 1719 (Bài 2)

Cơ hội nâng cao chất lượng dân số vùng miền núi Nghệ An: Từ nguồn lực Chương trình MTQG 1719 (Bài 2)

Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, thì việc khai thác phát huy hiệu quả Dự án 7, Chương trình MTQG phát triển kinh tế -xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025, trọng tâm là việc hỗ trợ tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân; đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình..., đang được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng dân số vùng miền núi Nghệ An.