Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Chuyện những người gieo chữ ở miền biên viễn

Vi Hợi - 08:50, 15/11/2022

Chấp nhận nhiều thiệt thòi trong cuộc sống cá nhân, gia đình để mang "cái chữ" đến với học trò vùng biên ải. Để hoàn thành nhiệm vụ, vận động học sinh đến trường học chữ, các thầy giáo, cô giáo của Trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở (PTDTBT THCS) xã biên giới Tam Hợp (huyện Tương Dương, Nghệ An) phải làm nhiều việc khác, ngoài dạy chữ.

Giờ thể dục của học sinh Trường PTDTBT THCS Tam Hợp (huyện Tương Dương, Nghệ An)
Giờ thể dục của học sinh Trường PTDTBT THCS Tam Hợp (huyện Tương Dương, Nghệ An)

Mỗi giáo viên một hoàn cảnh

Trường PTDTBT THCS Tam Hợp có 18 cán bộ, giáo viên, nhân viên phục vụ. Các thầy, cô đến đây từ nhiều địa phương khác nhau, mỗi người có hoàn cảnh và nỗi niềm riêng, nhưng ở họ có một điểm chung, đó là yêu nghề, yêu trẻ. Họ coi nhau như anh em, coi mái trường này là tổ ấm, là gia đình của mình.

"Ngày em mới chân ướt chân ráo lên đây, cảm giác hụt hẫng vì không biết tiếng dân tộc", cô giáo Nguyễn Thị Hiếu (40 tuổi), giáo viên dạy môn Sinh - Hóa, không dấu nổi xúc động nhớ lại ngày đầu mới bước vào nghề dạy học.

Cô Nguyễn Thị Hiếu quê ở xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn. Tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh năm 2004, cô quyết định nộp đơn xin việc làm ở huyện miền núi Tương Dương. Sau 1 năm chờ đợi, năm 2005, cô đã có quyết định tuyển dụng và được phân công vào dạy học ở Trường PTCS Tam Hợp. "Em vừa mừng, vừa lo. Mừng vì được đi dạy học, cái nghề mà mình hằng mơ ước từ tấm bé. Nhưng lo vì nghe người ta nói Tam Hợp là xã còn rất nhiều khó khăn của huyện Tương Dương, tuy không xa nhưng đường khó đi lắm", cô Nguyễn Thị Hiếu chia sẻ.

Đường sá, phương tiện đi lại khó khăn, nhưng cái đáng ngại nhất đối với cô giáo trẻ Nguyễn Thị Hiếu lúc bấy giờ là sự bất đồng về ngôn ngữ với học sinh. “Ở đây có 3 dân tộc, chủ yếu là Thái, Mông và Thổ (nhóm Tày Poọng). 100% các em học sinh đều sử dụng tiếng dân tộc trong giao tiếp hàng ngày. Nhớ ngày đầu, cô giáo muốn gần gũi, quan tâm hỏi thăm các em cũng rất khó. Bởi có hỏi chuyện, nói chuyện, các em cũng chỉ biết ngước mắt nhìn cô ngơ ngác lắc đầu "bỏ hủ", "chi pâu" (không biết)”, cô Hiếu bộc bạch.

Giờ dạy học của cô giáo Nguyễn Thị Hiếu
Giờ dạy học của cô giáo Nguyễn Thị Hiếu

Dạy học được 2 năm, cô Hiếu “bén duyên” với thầy giáo Hồ Đình Kỷ. Cô tâm sự: "Anh ấy ra trường trước em 1 năm, đã từng dạy học ở Trường PTCS Luân Mai trước khi chuyển vào đây công tác. Là người anh, người đồng nghiệp, lại cùng quê Nam Đàn nên chúng em dễ đồng cảm, sẻ chia trong công việc và cuộc sống”. Bây giờ vợ chồng cô Hiếu, thầy Kỷ đã có 2 con. Cháu trai đầu ở với bà ngoại (huyện Nam Đàn), cháu thứ 2 thì ở cùng mẹ, hiện đang học lớp 4 - Trường Tiểu học Tam Hợp. "Năm nay, bà ngoại em cũng đã 87 tuổi, già yếu rồi nên vợ chồng chúng em chỉ nhờ bà trông giúp cháu đầu, còn cháu thứ hai thì ở cùng mẹ. Năm ngoái anh Kỷ được phân công lên dạy học ở xã “ốc đảo” Hữu Khuông, vợ chồng, con cái mỗi người một nơi nên chúng em cũng khá vất vả".

Cô Nguyễn Thị Tố Loan, giáo viên dạy Ngữ văn và Lịch sử quê ở Hưng Chính, TP. Vinh ra trường trước cô Hiếu 5 năm. Cô đã từng dạy học ở các xã khác trước khi vào dạy học ở xã Tam Hợp. "Nhiều đồng nghiệp nói với tụi em vì đồng lương mà chấp nhận vào dạy học ở nơi khỉ ho cò gáy này. Nhưng chúng em dạy học đâu phải chỉ vì tiền, mà vì tâm nguyện gieo chữ cho học sinh ở vùng cao nữa chứ. Vì tương lai cho các em học sinh ở vùng cao, chúng em vẫn vui vẻ nhận nhiệm vụ khi tổ chức phân công", cô Loan tâm sự.

Hoàn cảnh của cô Loan cũng khó khăn không kém gì cô Hiếu. Chồng làm nghề xây dựng, hai vợ chồng đã có 2 con. Cháu trai đầu đang học Đại học Vinh, chuyên ngành Xây dựng, con thứ 2 đang học lớp 5. Trước đây, vợ chồng cô Loan đều đi làm xa nên 2 cháu ở với bà nội. Vài năm trước, chồng cô Loan bị tai nạn, sức khỏe yếu đi nhiều, không đi làm được nữa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chăm con. Thu nhập của gia đình cũng giảm đi, chủ yếu chờ vào đồng lương nhà giáo của cô Loan.

Cô Nguyễn Thị Hiếu (ảo dài đỏ) và cô Nguyễn Thị Tố Loan (áo dài xanh, đeo kính) đang trò chuyện với học sinh
Cô Nguyễn Thị Hiếu (áo dài đỏ) và cô Nguyễn Thị Tố Loan (áo dài xanh) trò chuyện với học sinh

Sống xa gia đình, nhiều lúc nhớ nhà, nhớ các con, cô Hiếu, cô Loan lại chạy sang khu ký túc xá của học sinh, hướng dẫn các em học bài hoặc trò chuyện, vui đùa cùng các em. Cũng có lúc cô vào nhà ăn xem các em ăn uống, sinh hoạt như thế nào, có em nào bỏ bữa không… "Ban Giám hiệu nhà trường cũng chia sẻ và thông cảm cho hoàn cảnh của chúng em nên chỉ bố trí thời khóa biểu dạy học đến ngày thứ Sáu. Hết tiết 5, chẳng kịp ăn cơm trưa, vội bắt xe lai ù ra đường 7 đón xe khách về với con. Trưa Chủ nhật lại đón xe lên Tương Dương để vào trường cho kịp sáng thứ 2 lên lớp".

Thầy Nguyễn Thạc Hồng (ở xã Xuân Lâm, huyện Nam Đàn), giáo viên dạy tiếng Anh tại Trường PTDTBT THCS Tam Hợp từ năm 2004. Công tác ở vùng cao này, thầy “bén duyên” với một cô gái dân tộc Thái, công tác tại UBND xã Tam Hợp và kết hôn năm 2007. “Vợ chồng em dựng một ngôi nhà nhỏ ở gần trường để thuận tiện cho sinh hoạt và công tác. Năm nay, vợ em lại có quyết định thuyên chuyển ra công tác ở xã Tam Thái nên việc quản lý, chăm sóc bọn trẻ hàng ngày đều do em đảm nhiệm", thầy Hồng chia sẻ.

 Nhìn các em học sinh đang tập thể dục giữa giờ, thầy Hồng cho biết thêm: "Học sinh ở đây rất ngoan nhưng học lực còn yếu. Nhiều em chưa nói thạo tiếng Việt nên học tiếng Anh cũng còn hạn chế"…

Tâm huyết với học trò

Mỗi thầy cô giáo, mỗi gia đình, mỗi cặp đôi mỗi hoàn cảnh nhưng họ giống nhau ở tình yêu nghề và quyết tâm vượt khó, bám trụ gieo chữ nơi biên cương của Tổ quốc. "Khi chọn nghề dạy học và bước chân vào mảnh đất biên giới này, các giáo viên đều tự nhủ với bản thân phải cố gắng và nỗ lực hết mình để các em học sinh có môi trường học tập tốt hơn. Giáo viên đều bảo nhau sẽ tạo ra những ấn tượng tích cực nhất cho học sinh để các em thích đến trường, thích học chữ", đó là tâm niệm của cô Lê Thị Nga và cũng chính là tâm niệm của 18 thầy, cô giáo Trường PTDTBTTHCS Tam Hợp.

Cô Lương Thị Luyện, Hiệu trưởng Trường PTDTBT THCS Tam Hợp cho biết: "Trường còn thiếu nhiều giáo viên bộ môn như Tin học, Hóa học, Lịch sử, Giáo dục công dân… nên một số thầy cô phải dạy kiêm cả 2 môn. Theo yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới thì nhà trường vẫn còn thiếu rất nhiều trang thiết bị. Các em học sinh nội trú chưa có nhà ăn, hàng ngày các em phải ngồi ăn trong ngôi nhà đã xuống cấp, rất không an toàn".

Các thầy giáo đi đón học sinh đến trường học
Các thầy giáo đi đón học sinh đến trường học

Qua trò chuyện với các thầy cô giáo, chúng tôi được biết, phần lớn các em học sinh ở đây thuộc diện hộ nghèo, bố mẹ đi làm ăn xa, ở nhà với ông bà. Hầu hết phụ huynh ở đây ít quan tâm đến việc học tập của con cái. Vì vậy, các em bỏ học như cơm bữa, không có ngày nào không có học sinh vắng học. Có đủ thứ lý do các em đưa ra, nào là đau chân, nào là ông bà rủ lên nương gặt lúa… Có những em không ở bán trú, trưa đi học không có cơm ăn đành nằm nhịn đói, ngày hôm sau không thèm đến lớp nữa.

Nhiều em học sinh dân tộc Mông, nhà ở tận bản Huồi Sơn, Phá Lỏm không có bố mẹ đưa đón phải đi bộ vượt qua chẳng đường dài trên 10 cây số. "Nhiều khi thấy thương học trò quá, các thầy lại làm xe ôm đưa đón các em đến trường học chữ. Nếu các thầy không cố gắng như vậy thì nhiều em về nhà cuối tuần là nghỉ luôn, không đi học nữa. Có em thì về nghỉ đến tận giữa tuần mới quay lại lớp", thầy Vi Văn Hiềm cho biết.

Là trường PTDTBT nên việc lo chuyện học hành, lo việc ăn uống và giấc ngủ cho các em cũng đủ làm cho thầy cô ở đây thấm mệt. Hơn 100 em ăn ở nội trú, mỗi em một tính cách, mỗi em một sở thích ăn uống, không em nào giống em nào. "Có em không thích ăn trứng, em thì không thích cá biển… Một số em bỏ bữa vì món ăn không hợp sở thích, thầy cô lại phải dỗ dành. Nhiều hôm bỏ tiền túi ra để mua cơm cho các em ăn", thầy Lương Gia Bảo chia sẻ.

Bữa ăn của học sinh nội trú Trường PTDTBT THCS Tam Hợp
Bữa ăn của học sinh nội trú Trường PTDTBT THCS Tam Hợp

Theo chế độ quy định của Nhà nước, đối với học sinh các trường PTDTBT được hưởng 596 ngàn đồng. Chia ra mỗi ngày, một học sinh ăn ở bán trú được hưởng hơn 19 ngàn đồng. Như vậy, nếu tính bình quân, mỗi bữa ăn của các em chưa được 10 ngàn đồng. Với số tiền ấy, thầy cô và nhà bếp phải cố gắng lắm mới có thể đảm bảo cho các em ăn no.

Để cải thiện bữa ăn cho các em và giảm khoản tiền chi phí mua rau, thầy cô phải tự làm vườn để có rau xanh cho các em ăn hàng ngày. Cũng có những đêm soạn bài xong, các thầy rủ nhau đi bắt cá để ngày mai các em có cá ăn. Khi màn đêm buông xuống, tiếng trống học ban ban đêm đã điểm, các thầy cô lại xuống từng phòng để kèm cặp các em học, hết giờ lại thay nhau canh cho các em ngủ. Sớm mai thức dậy lại đến từng phòng nhắc nhở các em xếp chăn màn thật gọn gàng, quét dọn phòng ở cho sạch sẽ.

Cô Lương Thị Luyện và Lê Thị Nga cùng các em học sinh tham gia Kỳ thi học sinh giỏi lớp 9 năm học 2022-2023.
Cô Lương Thị Luyện và Lê Thị Nga cùng các em học sinh tham gia Kỳ thi học sinh giỏi lớp 9 năm học 2022-2023.

Nếu ai đó có dịp đến với Trường PTDTBT THCS Tam Hợp thì hãy dành đôi phút nắm lấy đôi bàn tay của các thầy cô giáo nơi đây, chắc chắn sẽ cảm nhận được những điều rất đặc biệt. Đôi bàn tay ấy không mềm mại như thông thường mà lại nhiều những vết chai sần, bởi ngoài việc cầm phấn giảng dạy trên lớp, họ còn phải lao động, phải kiêm nhiệm thêm nhiều việc. Tuy nhiên, thật hạnh phúc khi tại chính nơi đây, những bàn tay ấy đã tìm đến nhau khi trái tim hòa chung nhịp đập. Họ đã nắm lấy tay nhau, tiếp thêm nghị lực để cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để xây dựng mái trường này trở thành ngôi trường hạnh phúc, để cho các em học sinh thân yêu của mình thấm thía câu nói "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui", mà không chỉ vui thôi đâu mà còn phải no đủ nữa. 

Tin cùng chuyên mục
Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Hàng loạt tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, trong đó nổi cộm là địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế..., đã tạo "đất sống" cho những hủ tục, tập quán lạc hậu tồn tại. Đây chính là những thách thức lớn làm ảnh hưởng đến quá trình nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây xứ Nghệ. Thực tế, đã có nhiều giải pháp khắc phục hạn chế được đưa ra, trong đó là việc tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân.