Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với nhiều tên gọi khác nhau như Phạtkđi hay Biđuê của người Ê Đê, Phạtkđuôi của người Mnông, Tơlơidjuat hay Tơlơiphian của người Gia Rai, Ađatmuca của người Raglay, Dâytơrônkđi của người Mạ… được coi là sự thể hiện thái độ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và cộng đồng xã hội.
Trong luật tục của các DTTS ở Tây Nguyên cũng có nhiều nội dung thể hiện sự quan tâm đối với trẻ em. Luật tục phê phán những ông bố bà mẹ không biết nuôi dạy, chăm sóc con cái, thậm chí còn bỏ rơi hoặc đẩy những đứa trẻ đáng thương ra ngoài đường: Chúng còn nhỏ còn bé; Anh chị bỏ rơi nó; Anh chị không thương chúng; Chúng nó đâu phải là dê con, là bò con mà chỉ biết ăn cỏ; Vì sao anh chị lại đuổi chúng ra ngoài đường…(Luật tục Gia Rai).
Trách nhiệm của cha mẹ là phải nuôi dạy con cái nên người, chăm sóc chúng đến khi trưởng thành. Trong trường hợp trẻ con chưa có khả năng tự chủ, nuôi sống bản thân mà chẳng may cha mẹ mất sớm thì trách nhiệm đó thuộc về anh chị em ruột của người đó. Nếu không có anh em ruột hoặc có nhưng còn nhỏ thì bà con họ hàng bên phía mẹ phải có trách nhiệm chăm sóc, rồi đến họ hàng của bố. Trong trường hợp họ hàng không còn ai thì buôn làng vận động người khác nhận làm con nuôi. Điều đó thể hiện sự quan tâm của gia đình và cộng đồng buôn làng đối với trẻ em.
Trách nhiệm nuôi nấng, chăm sóc trẻ em không chỉ là bổn phận của bậc làm cha mẹ, gia đình mà đó còn là trách nhiệm của cộng đồng buôn làng. Tập quán của đồng bào các dân tộc phê phán những ông bố, bà mẹ không làm trọn bổn phận của mình, thậm chí còn bỏ rơi con trẻ: Ống cháo sao bỏ bãi cỏ; Ống cá sao bỏ giữa buôn; Có con sao bỏ cho ai ; Cha mẹ bỏ rơi con, có tội…(Luật tục Mnông).
Đối với những đứa trẻ lang thang, cơ nhỡ do nhiều hoàn cảnh khác nhau, luật tục cho phép quyền được nhận con nuôi: Tôi thấy chuột ở ngoài rừng; Thấy kỳ nhông ở ngoài làng; Thấy mang ở trong bụi cây; Thấy rái cá ở trong nước; Thấy vượn ở trên núi; Đến cửa nhà tôi; Tôi phải nuôi nấng chúng thôi… (Luật tục Gia Rai).
Luật tục cho phép mọi người dân có quyền nhận người khác làm con nuôi hoặc được người khác nhận làm con nuôi mà không phân biệt họ hàng dòng tộc. Việc nhận con nuôi chỉ cần có sự thỏa thuận giữa bà con họ hàng đôi bên và mặc nhiên được buôn làng chấp thuận. Con nuôi có đủ các quyền và nghĩa vụ như con đẻ, được tôn trọng và đối xử bình đẳng, kể cả quyền được nhận tài sản thừa kế: Nếu nó sống hiền lành tử tế; Biết làm vựa lúa, làm rẫy tốt; Của cải tiền nong, sáp ong của người ta; Sẽ được chia cho nó… (Luật tục Gia Rai).
Con nuôi không được bán hoặc đổi lấy lúa, lấy muối, mà phải đối xử tử tế, phải chăm sóc dạy dỗ đến nơi đến chốn, vì nuôi trẻ mồ côi không tử tế là mang tội. Luật tục khuyên bảo những người có lòng tốt hãy ra tay làm phúc cứu vớt những trẻ mồ côi. Theo quan niệm dân gian, nếu nuôi những đứa trẻ mồ côi thì điều may mắn, tốt lành sẽ đến với người làm phúc: Ta xem thường người mồ côi là có tội; Ta từ chối con nuôi sẽ nghèo; Ta đem nó về nuôi sẽ giàu; Ta đem nó về nuôi sẽ sang… (Luật tục Mnông).
Có thể nói luật tục quy định về con nuôi là khá cụ thể và phù hợp với pháp luật hiện hành. Điều đó thể hiện trách nhiệm của gia đình mà còn là trách nhiệm chung của cộng đồng làng buôn đối với trẻ em. Một trong những tội bị luật tục lên án gay gắt nhất, mạnh mẽ nhất là tội hãm hiếp trẻ con và được khép vào loại tội lớn nhất, dơ dáy nhất mà không một vật chất nào đền bù thỏa đáng: Hãm hiếp trẻ con là tội lớn; Trả bằng trâu chưa khớp; Trả bằng ché chưa đúng; Trả bản thân cũng chưa xong… (Luật tục Mnông)...
Trong những năm đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến tích cực, nền kinh tế hàng hóa đang dần dần tác động và thay thế nền kinh tế nương rẫy tự nhiên. Việc giao lưu, hội nhập văn hóa có ảnh hưởng nhất định đến lối sống, phong tục tập quán, tạo nên những biến đổi trong đời sống.
Mặc dù một số điều trong luật tục không còn phù hợp với xã hội hiện đại cần phải điều chỉnh để phù hợp với pháp luật Nhà nước hiện hành. Tuy nhiên, việc điều chỉnh luật tục phải trên cơ sở phong tục và truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc. Có như vậy, luật tục mới thực sự đi vào cuộc sống.