Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng Đồng bào DTTS và Miền núi

Yên Bái: Trả lại vị thế cho cây chè

Trọng Bảo - 17:36, 20/08/2021

Từ những năm 1980 của thế kỷ trước, Yên Bái là địa phương có diện tích trồng chè lớn của cả nước, với diện tích trên 12.000 ha; đồng thời Yên Bái là địa phương dẫn đầu cả nước về xuất khẩu chè đen. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, hiện nay diện tích trồng chè toàn tỉnh chỉ còn hơn 7.600 ha.

Với những chính sách và giải pháp phù hợp, thời gian tới cây chè sẽ là 1 trong 10 cây trồng chủ lực của tỉnh Yên Bái
Tỉnh Yên Bái đang nổ lực đưa cây chè trở thành một trong 10 cây trồng chủ lực của tỉnh

Từ chủ trương khôi phục ngành chè

Theo báo cáo từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Yên Bái, hiện nay, diện tích trồng chè toàn tỉnh còn hơn 7.600 ha. Tổng sản lượng chè đen, chè xanh đạt 20.000 tấn/năm, với giá trị sản phẩm đạt gần 400 tỷ đồng.

Ông Đinh Đăng Luận, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Yên Bái cho biết, nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm về sản lượng, diện tích trồng chè của tỉnh Yên Bái, là do thiếu quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn để đầu tư thâm canh. Mối liên kết giữa cơ sở chế biến và người trồng chè lỏng lẻo, không ổn định về giá cả; chính sách hỗ trợ các hộ, doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh chè chưa đủ mạnh…

Theo ông Luận, với chủ chương tăng cường chính sách hỗ trợ, cơ cấu lại các vùng sản xuất chè gắn với công nghiệp chế biến, tỉnh Yên Bái đang nỗ lực phục hồi cây chè trở thành 1 trong 10 cây trồng chủ lực trong thời gian tới. Trong đó, để khôi phục lại diện tích trồng chè, lấy lại thương hiệu  sản phẩm chè, tỉnh Yên Bái đang chuyển đổi cơ cấu sản phẩm theo hướng giảm tỷ trọng chè đen từ 85% xuống còn 65%; tăng tỷ trọng sản phẩm chè xanh từ 15% lên 35% và chè đặc sản. Đồng thời, tiếp tục làm tốt việc xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu và sở hữu trí tuệ. 

"Thời gian tới, diện tích chuyên canh tập trung sẽ tăng lên khoảng 5.000 ha; trong đó, diện tích được sản xuất theo tiêu chuẩn chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ... đạt 1.500 ha. Cùng với đó, phát triển mở rộng thêm diện tích chè Shan đặc sản hữu cơ khoảng 2.200 ha, đưa sản lượng chè shan búp tươi đạt 7.000 tấn/năm”, ông Luận cho biết thêm.

Cũng theo ông Luận, để nâng cao giá trị sản phẩm chè, trước hết, phải có giống chè tốt, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của mỗi tiểu vùng. Tiếp đến là phải có cơ chế bền vững liên kết giữa người trồng chè, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới thiết bị, công nghệ chế biến, làm tốt việc xây dựng thương hiệu và sở hữu trí tuệ.

Nhiều vùng chè Shan đặc sản đã và đang được tỉnh Yên Bái quy hoạch, hỗ trợ người nông dân để mở rộng diện tích
Nhiều vùng chè shan đặc sản đã và đang được tỉnh Yên Bái quy hoạch, hỗ trợ người nông dân để mở rộng diện tích

Cụ thể hóa chính sách hỗ trợ cho cây chè

Để gải quyết vấn đề này, hiện tỉnh Yên Bái đã xây dựng Đề án quy hoạch và cơ cấu lại các vùng sản xuất chè gắn với công nghiệp chế biến. Theo đó, vùng chè xanh chất lượng cao được xác định tại các huyện vùng thấp như: Trấn Yên, Yên Bình, thành phố Yên Bái, với tổng diện tích 2.000 ha, được trồng bằng các giống chè nội như, kim tuyên, thúy ngọc, phúc vân tiên, bát tiên. Vùng nguyên liệu sản xuất chè xanh, được quy hoạch gắn với các cơ sở chế biến tại các vùng trồng chè truyền thống thuộc thị xã Nghĩa Lộ và huyện Văn Chấn.

Đối với vùng chè đặc sản, Yên Bái chủ trương tăng diện tích hiện có đối với khu vực có đủ điều kiện và áp dụng quy trình trồng chè shan cải tiến theo hướng hữu cơ, với mật độ từ 6.000 - 6.500 cây/ha. Trọng tâm trước mắt là, cải tạo và phát triển diện tích vùng chè shan trồng mật độ cao tại khu vực xã Gia Hội, Nậm Búng (huyện Văn Chấn), với quy mô diện tích từ 800 - 1.000 ha. Đồng thời, hỗ trợ xây dựng mới 4 cơ sở chế biến chè shan chất lượng cao phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Để đạt được mục tiêu này, ngày 16/12/2020, Hội đồng Nhân dân tỉnh Yên Bái đã ban hành Nghị quyết số 69 về việc hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 2021 - 2025; trong đó, chính sách hỗ trợ phát triển ngành chè được cụ thể hóa, theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

“Dự án trồng chè có quy mô từ 50 ha trở lên sẽ được tỉnh Yên Bái hỗ trợ lên tới 3 tỷ đồng/dự án nếu triển khai tại vùng cao; 2,5 tỷ đồng/dự án triển khai tại vùng thấp. Nội dung hỗ trợ bao gồm từ khâu đánh giá xác định vùng nguyên liệu, hỗ trợ mua cây giống, đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng bảo quản, chế biến chè đến khâu thiết kế mẫu mã, nhãn mác, chứng nhận sản phẩm thuộc Chương trình Mỗi xã một sản phẩm và tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước”, ông Luận thông tin thêm.

Hy vọng những chính sách và giải pháp thiết thực của tỉnh Yên Bái, sẽ sớm đưa cây chè trở lại đúng với vị thế và tiềm năng vốn có, góp phần nâng cao thu nhập, làm giàu cho người dân trồng chè.

Tin cùng chuyên mục
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình: Rà soát, lựa chọn các dự án đầu tư có trọng tâm thúc đấy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình: Rà soát, lựa chọn các dự án đầu tư có trọng tâm thúc đấy phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS

Sáng 9/11, tại Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai, Ủy ban Dân tộc phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021 - 2025 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719) khu vực miền Trung - Tây Nguyên và đề xuất nội dung Chương trình MTQG 1719 giai đoạn II từ năm 2026 - 2030.