Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), trong 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt gần 12 tỷ USD, giảm 16,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 2 tháng, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 6,28 tỷ USD, giảm 22,5% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu ước khoảng 5,72 tỷ USD, giảm 9,5%; xuất siêu 559 triệu USD, giảm 68,5% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu nông sản tăng trưởng trở lại
Do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán và tác động khó khăn về đơn hàng khiến giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong tháng 1/2023 chỉ đạt hơn 3,7 tỷ USD, giảm hơn 23% so với cùng kỳ năm ngoái. Tình hình này đã bắt đầu cải thiện vào tháng 2.
Chỉ riêng trong tháng 2, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 3,4 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng 2/2022 và tăng 18,1% so với tháng 1/2023; trong đó, nhóm nông sản chính 1,79 tỷ USD (tăng 25,9% so với tháng 2/2022); chăn nuôi 29 triệu USD (tăng 46,5%), đầu vào sản xuất đạt 158 triệu USD (giảm 5,2%)… Tuy nhiên, lâm sản chính gần chỉ đạt 872,1 triệu USD (giảm 10,7%), thủy sản 550 triệu USD (giảm 13,1%)...
Những mặt hàng trong tháng 2 đã đạt giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm trước gồm: Chè đạt 25 triệu USD (tăng 5,1%); nhóm rau quả đạt 592 triệu USD (tăng 17,8%); sắn và sản phẩm sắn đạt 283 tỷ USD (tăng 32,7%), sữa và sản phẩm từ sữa đạt 16,2 triệu USD (tăng 10,2%), thịt, phụ phẩm 16,9 tỷ USD (tăng 14,2%).
Bên cạnh đó, một số mặt hàng khác kim ngạch xuất khẩu tháng 2 lại giảm, như: Cà phê 703 triệu USD (giảm 14,6%), cao su 394 triệu USD (giảm 23,1%), gạo 417 triệu USD (giảm 10,8%), hạt điều 327 triệu USD (giảm 14,3%), hạt tiêu 129 triệu USD (giảm 7,4%), cá tra 133 triệu USD (giảm 64,1%), tôm 251 triệu USD (giảm 54,9%), gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,61 tỷ USD (giảm 34,8%), sản phẩm mây, tre, cói thảm đạt 106 triệu USD (giảm 39,8%)...
Về thị trường xuất khẩu, trong 2 tháng đầu năm, các thị trường xuất khẩu chủ yếu tập trung ở khu vực châu Á (chiếm 47,4% thị phần), tiếp đến là châu Mỹ (21,1%), châu Âu (13,4%), châu Đại Dương (1,4%) và châu Phi (1,3%).
Trung Quốc đã trở lại là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt 1,27 tỷ USD (chiếm 20,2% thị phần); đứng thứ 2 là Hoa Kỳ khoảng 1,19 tỷ USD (chiếm 19% thị phần); thứ 3 là Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt 563 triệu USD (chiếm 9 %); thứ 4 Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt 302 triệu USD (chiếm 4,8%).
Thúc đẩy tiêu thụ nông sản
Để thực hiện nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường thúc đẩy tiêu thụ nông sản thời gian tới, Bộ NN&PTNT tiếp tục đẩy mạnh phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh và biến động thị trường trong nước và thế giới. Tận dụng các hiệp định tự do thương mại, đặc biệt là Hiệp định Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là Hiệp định (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản chủ lực. Tiếp tục phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài.
Đặc biệt, Bộ NN&PTNT đang chuẩn bị tổ chức đoàn công tác làm việc với Hải quan Nam Ninh, Hải quan Vân Nam Trung Quốc để kết nối, xúc tiến thương mại; cập nhật, tháo gỡ các vướng mắc trong xuất khẩu nông lâm thủy sản.
Dự kiện, Bộ NN&PTNT sẽ tổ chức Diễn đàn xuất khẩu rau quả trong khuôn khổ Triển lãm quốc tế lần 5 chuyên ngành công nghệ sản xuất và chế biến rau hoa quả Việt Nam (Hortex Vietnam 2023) vào đầu tháng 3/2023.
Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT cũng đang theo dõi, nắm bắt tình hình giá cả, nguồn cung các mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu phục vụ báo cáo Tổ điều hành Thị trường trong nước và Ban Chỉ đạo giá của Chính phủ; phối hợp với các địa phương hỗ trợ kết nối, thúc đẩy chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông sản vào vụ thu hoạch.
Bộ NN&PTNT sẽ trình Chính phủ đề xuất xây dựng Nghị định quản lý thương hiệu nông sản quốc gia Việt Nam./.