Sửa đổi chính sách tinh giản biên chế
Chính phủ đã ban hành Nghị định 143/2020/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định số 143) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 108/2014/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế (TGBC) và Nghị định 113/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 108/2014/NĐ-CP.
Nghị định số 143 quy định các trường hợp TGBC tại điểm c, d, đ, e, g khoản 1 Điều 6 Nghị định 108/2014 được sửa đổi như sau:
Chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định đối với vị trí việc làm đang đảm nhiệm, nhưng không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố trí và không thể bố trí đào tạo lại để chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc được cơ quan, đơn vị bố trí việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện TGBC và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;
Có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang đảm nhiệm nên không hoàn thành nhiệm vụ được giao nhưng không thể bố trí việc làm khác hoặc được cơ quan, đơn vị bố trí việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện TGBC và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;
Có hai năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét TGBC, cán bộ, công chức có một năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ và một năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp; hoặc không hoàn thành nhiệm vụ trong năm trước liền kề tại thời điểm xét TGBC nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện TGBC và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;
Có hai năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét TGBC, viên chức có một năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành nhiệm vụ và một năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố trí việc làm khác phù hợp; hoặc không hoàn thành nhiệm vụ trong năm trước liền kề tại thời điểm xét TGBC nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện TGBC và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý;
Có hai năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét TGBC mà trong từng năm đều có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật BHXH, có xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh và của cơ quan BHXH chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật; hoặc năm trước liền kề tại thời điểm xét TGBC có tổng số ngày nghỉ làm việc bằng hoặc cao hơn số ngày nghỉ tối đa do ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật BHXH, có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh và của cơ quan BHXH chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện TGBC được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý.
Sửa tuổi hưởng chính sách về hưu sớm khi tinh giản biên chế
Một trong những nội dung đáng quan tâm của Nghị định số 143 là sửa đổi chính sách về hưu trước tuổi.
Theo đó, sửa đổi, bổ sung Điều 8 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP và các khoản 6, khoản 7 Điều 1 Nghị định số 113/2018/NĐ-CP về chính sách về hưu trước tuổi. Quy định này áp dụng với bốn nhóm đối tượng của chính sách TGBC được quy định tại Điều 6 của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP.
Thứ nhất, Đối tượng TGBC quy định có tuổi thấp hơn tối đa đủ 5 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu tối thiểu quy định tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động (BLLĐ) và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) trở lên. Trong đó, có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB và XH) và Bộ Y tế ban hành; hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về BHXH.
Họ còn được hưởng các chế độ sau: Không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi; Được trợ cấp ba tháng tiền lương cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với quy định về tuổi tối thiểu tại khoản 3 Điều 169 BLLĐ; Được trợ cấp năm tháng tiền lương cho 20 năm đầu công tác, có đóng đủ BHXH. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng BHXH được trợ cấp ½ tháng tiền lương.
Thứ hai, Đối tượng TGBC theo quy định nếu có tuổi thấp hơn tối đa đủ 5 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 BLLĐ và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về BHXH và chế độ quy định…; được trợ cấp ba tháng tiền lương cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 BLLĐ.
Thứ ba, Đối tượng TGBC nếu có tuổi thấp hơn 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu tối thiểu quy định tại khoản 3 Điều 169 BLLĐ và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐ-TB và XH và Bộ Y tế ban hành; hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về BHXH và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.
Thứ tư, Đối tượng TGBC quy định tại Điều 6 Nghị định này nếu có tuổi thấp hơn 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 BLLĐ và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên, thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về BHXH và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.
Các sửa đổi tại Nghị định này để phù hợp với các quy định tại BLLĐ 2019 sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 và Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi 2019 có hiệu lực từ ngày 1/7/2020./.