Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng Đồng bào DTTS và Miền núi

Nón ngựa miền di sản

Tiêu Dao - 08:12, 27/05/2024

Trải qua mấy trăm năm, những đôi tay gầy guộc của người làng đã cần mẫn tạo nên một di sản. Một di sản bằng sự giữ gìn truyền thống và sáng tạo, mang nét cũ xưa và cả hơi thở hiện đại của thời cuộc vào trong chiếc nón mỏng manh nhẹ nhàng ấy.

Gần 400 năm suy thịnh của nón ngựa, chưa bao giờ người làng ngơi nghỉ một ngày đan nón.
Gần 400 năm suy thịnh của nón ngựa, chưa bao giờ người làng ngơi nghỉ một ngày đan nón.

Người khâu nón giữa làng

Tỉ mẩn từng mũi kim đường chỉ, nhẹ nhàng với từng lớp lá và nan nón, cẩn trọng với từng màu sắc của quai nón, ông lão Đỗ Văn Lan ở cái tuổi ngoài thất thập đã có gần 60 năm cặm cụi như thế. Nghề đan nón ngựa ở làng Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định có những người như ông Lan, cần mẫn đan nón. Từ những chiếc nón ngựa bịt bạc hay đồng được dùng cho giới quý tộc, quan lại khi cưỡi ngựa. Những chiếc nón độc đáo này là sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm bản sắc văn hóa của người dân xứ Nẫu.

Vừa khâu nón vừa thầm thì như kể chuyện với tiền nhân, ông Lan kể, ngày xưa, những nghệ nhân ở đây làm ra chiếc nón này chủ yếu để phục vụ cho vua, quan đội khi ngồi trên lưng ngựa. Đặc biệt vào thời vua Quang Trung, nón ngựa Phú Gia đã gắn liền với đội quân thần tốc Tây Sơn. Các họa tiết thêu trên mỗi chiếc nón cũng khác nhau, tương ứng với chức vụ, phẩm hàm của người đội nón. 

Mỗi mẫu hoa văn trên nón sẽ thể hiện thứ bậc của người đội nón trong xã hội thời bấy giờ. Chẳng hạn như người có chức vị từ xã trưởng trở lên sẽ đội nón ngựa có chụp chóp bằng đồng hay bạc chạm trổ hình dáng của Long, Lân, Quy, Phụng. Hay như giới thượng lưu, địa chủ sẽ sử dụng các loại nón có mai, cúc, trúc, tùng nhằm biểu trưng cho sự thanh tao, đài các. Ở Phú Gia thời trước, ngày cưới, nhà giàu rước dâu bằng kiệu, chàng rể đội nón đi ngựa còn nhà nghèo cũng cố sắm vài đôi nón ngựa cho cô dâu, chú rể đội trong ngày trọng đại này.

Gắn bó với nghề khi chỉ mới 12 tuổi, nghệ nhân Đỗ Văn Lan được xem là “cao thủ” trong nghề làm nón ngựa xứ này.
Gắn bó với nghề khi chỉ mới 12 tuổi, nghệ nhân Đỗ Văn Lan được xem là “cao thủ” trong nghề làm nón ngựa xứ này.

Gắn bó với nghề khi chỉ mới 12 tuổi, nghệ nhân Đỗ Văn Lan được xem là “cao thủ” trong nghề làm nón ngựa xứ này. Gia đình ông đã trải qua 5 đời làm nghề nón ngựa. Đã 72 tuổi mà ông còn tinh tường lắm. Có vậy ông mới đảm nhiệm được vai trò “người giữ lửa” cho làng nghề nón ngựa Phú Gia đã có gần 400 năm tuổi này. Tương tự như ông Lan, bà Trần Thị Kéo cũng là một nghệ nhân làm nón ngựa ở Phú Gia. Bà đã làm nghề này cùng với cha mẹ từ hồi 15 tuổi tới bây giờ. Hiện nay, bà đã 85 tuổi và tiếp tục truyền nghề cho con cháu.

Trải qua gần 400 năm làm nón ngựa, chưa bao giờ người làng ngơi nghỉ một ngày đan nón. Ở đâu trong làng cũng bắt gặp người đan nón, từ người trẻ tới người già đều biết làm. Có lẽ, hiếm có một làng nghề nào mà người làng phấn khởi đến như thế khi không cần phải đau đáu đi tìm truyền nhân. Làng này, từ nhỏ những đứa trẻ đã học cách làm nón, học cách chế tác nguyên liệu, và cứ thế từng năm từng năm, những bàn tay khéo léo hơn, những ngón tay nhuần nhuyễn hơn, và sức sống của những chiếc nón được từng lớp người thay nhau nuôi lấy, như nuôi sự sống của cả làng. 

Những người như ông Lan, bà Kéo, bà Nguyễn Thị Tâm với kinh nghiệm hơn nửa thế kỉ đan nón, đã nắm giữ được hết bí quyết của nghề, và truyền lại cho lớp sau như thế. “Nghề làm nón này, tuy không vất vả nhưng phải biết được cái tinh anh, phải có đôi tay khéo léo và sự nhiệt thành học hỏi, vậy mới có thể làm được!”, ông Lan bộc bạch khi khoe chiếc nón “gia bảo” là kỷ vật của người mẹ để lại cho ông Lan, cũng chính là những “khuôn mẫu” để ông Lan bắt tay làm những chiếc nón ngựa. Chiếc nón này có tuổi đời hơn một thế kỷ và được sử dụng liên tục 45 năm. Chiếc nón không chỉ đẹp vì đường nét, mà còn vì ánh lên từ đó màu thời gian của đời người.

Khi du lịch phát triển, làng nón Phú Gia cũng sống dậy tạo ra được nhiều việc làm cho lao động địa phương.
Khi du lịch phát triển, làng nón Phú Gia cũng sống dậy tạo ra được nhiều việc làm cho lao động địa phương.

Sức sống trăm năm

Thịnh suy của một làng nghề truyền thống là điều khó tránh khỏi, nhất là trong thời đại kinh tế thị trường. Nhưng với Phú Gia, với những người như ông Lan, bà Kéo, bà Tâm và người làng thì những nỗ lực không biết mệt mỏi hàng chục năm trời đã giúp cho làng nghề giữ được và phát triển hơn. Mấy trăm năm qua, người làng Phú Gia vẫn giữ nghề như thế, với từng công đoạn làm nón khắt khe và chặt chẽ. Để làm xong chiếc nón tốn rất nhiều thời gian, tâm sức của người nghệ nhân. Và tất nhiên, giá trị của chiếc nón bao gồm từ rất nhiều thứ từ sự tỉ mỉ, sáng tạo của người nghệ nhân, đến những giá trị lịch sử, văn hoá của nón, và cả những giá trị vật chất là các chóp bạc, đồng…

Chính vì vậy giá bán của nón ngựa cũng cao hơn các loại nón khác. Giá từ vài trăm ngàn đồng tới vài chục triệu đồng một chiếc, cá biệt có những chiếc nón được đặt riêng, làm công phu và thời gian lên tới cả tháng trời, giá trị lên tới hơn 50 triệu đồng.

Khách du lịch về Bình Định thường tìm về làng Phú Gia mua nón ngựa như mua một tác phẩm nghệ thuật độc đáo để làm kỷ niệm. Cũng như nhiều hộ gia đình khác, gia đình ông Lan với 6 thợ là người trong nhà và 14 lao động thuê làm thường xuyên mỗi năm sản xuất khoảng 500 chiếc nón ngựa có giá từ 300 ngàn đồng đến 3 triệu đồng mỗi chiếc. Nón của gia đình ông Lan làm ra chủ yếu cung ứng cho khách hàng trong nước đặt mua để phục vụ khách du lịch.

Nón ngựa Phú Gia thực sự là “kiệt tác”, giữ được vẻ đẹp truyền thống của chiếc nón lá Việt, gửi gắm vào đó những hình ảnh lộng lẫy, những câu chuyện lịch sử.
Nón ngựa Phú Gia thực sự là “kiệt tác”, giữ được vẻ đẹp truyền thống của chiếc nón lá Việt, gửi gắm vào đó những hình ảnh lộng lẫy, những câu chuyện lịch sử.

Mấy năm gần đây, khi du lịch phát triển, làng nón Phú Gia cũng sống dậy. Nhờ thế, nghề làm nón đã tạo ra được nhiều việc làm cho lao động địa phương khi toàn xã hiện có khoảng 320 hộ với trên 700 lao động làm nón. Doanh thu mỗi năm từ làng nghề chiếm 44% tổng thu nhập của địa phương. Có nhiều hộ làm các nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề làm nón, đã xây dựng được nhà cửa khang trang, nhiều hộ nghèo đã vươn lên ổn định cuộc sống.

Ông Đỗ Xuân Thắng - Phó Chủ tịch UBND huyện Phù Cát, cho biết thời gian qua, chính quyền các cấp đã hỗ trợ bà con lập nhiều dự án vay vốn ưu đãi của nhà nước để mở rộng quy mô sản xuất; tìm cách kết nối với các cơ quan, tổ chức nghiên cứu khoa học để hỗ trợ bà con về ứng dụng kỹ thuật mới, kể cả cách thức bán hàng. Với việc được chọn đầu tư làm làng văn hóa du lịch của tỉnh cùng với việc nghề làm nón ngựa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia, người dân có thêm cơ hội lớn, trước tiên là nghề nón. Các cấp chính quyền luôn tìm mọi cách để hút các nguồn vốn, tìm cơ hội quảng bá cho làng nón Phú Gia. Quan trọng hơn, các thế hệ nghệ nhân đã tạo nên sức sống bền bỉ cho làng nghề Phú Gia.

Tin cùng chuyên mục
Quảng Nam: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong vùng đồng bào DTTS

Quảng Nam: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong vùng đồng bào DTTS

Xác định tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao giáo dục pháp luật cho người dân, nhất là vùng đồng bào DTTS và miền núi có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, Quảng Nam đã tích cực triển khai và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ.