Trẻ em thuộc nhóm người dễ bị tổn thương, có những nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng và là đối tượng được xã hội quan tâm, ưu tiên bảo vệ. Việc bảo đảm quyền trẻ em đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam bởi đây là lực lượng làm chủ xã hội trong tương lai, góp công sức, trí tuệ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, thời gian gần đây tình trạng bạo hành trẻ em đang nguy cơ có chiều hướng gia tăng ở nhiều địa phương, với hình thức đa dạng, khó lường, phương thức và thủ đoạn tinh vi, phạm vi mở rộng với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, thậm chí đã có những vụ việc dẫn tới tử vong, gây bất bình, phẫn nộ trong cộng đồng.
Năm 2022, chỉ tính riêng chín tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.711 vụ xâm hại trẻ em với 1.806 trẻ em. Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 1.934 vụ với 2.146 bị cáo phạm tội xâm hại người dưới 18 tuổi theo thủ tục sơ thẩm; giải quyết, xét xử 1.909 vụ với 2.116 bị cáo.
Thực tế cho thấy các vụ bạo hành trẻ em ngày càng thể hiện tính chất phức tạp, gia tăng mức độ nghiêm trọng; nạn nhân bị xâm hại ngày càng trẻ hóa, báo động sự xuống cấp về đạo đức của không ít cá nhân, gây bức xúc xã hội. Khảo sát Chỉ số Mục tiêu Phát triển Bền vững của Việt Nam về Trẻ em và Phụ nữ năm 2020 - 2021 chỉ ra, hơn 72% trẻ em trong độ tuổi từ 10 - 14 đã từng bị kỷ luật bạo lực; trong đó có 39% trẻ em bị bạo lực tinh thần, 47% trẻ em bị xâm hại thể chất. Hậu quả mà các em phải gánh chịu sẽ cần phải rất lâu mới có thể khắc phục được.
Nguyên nhân dẫn tới tình trạng bạo hành trẻ em trước tiên xuất phát từ tư duy của nhiều người, theo đó việc áp dụng kỷ luật bạo lực được coi là một "biện pháp giáo dục", với quan niệm "yêu cho roi cho vọt", "đánh cho nên người",… trong khi thực tế việc làm này khiến trẻ em dễ bị thương tổn cả về thể xác lẫn tinh thần. Nhận thức pháp luật về quyền trẻ em của một bộ phận người dân nói chung còn thấp.
Nhiều vụ bạo hành trẻ em xảy ra công khai, kéo dài nhưng chưa được người dân quan tâm, nhìn nhận đúng nguy cơ để trình báo kịp thời tới các cơ quan chức năng, để đến khi phát hiện ra thì hậu quả đã rất nghiêm trọng. Các chế tài xử phạt đối với các hành vi và tội bạo hành trẻ em chưa phát huy tính răn đe, phòng ngừa hiệu quả. Mặt khác, phải thừa nhận rằng, mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận người dân trong xã hội tác động không nhỏ, đã và đang là nguyên nhân của những tệ nạn ngày một gia tăng, trong đó có nạn bạo hành trẻ em.
Bạo hành trẻ em gây hậu quả nặng nề ở cả trước mắt và lâu dài. Về phía trẻ em, khi bị ngược đãi, bạo hành sẽ để lại những tổn thương sâu sắc cả về thể xác lẫn tinh thần. Trẻ bị bạo hành lớn lên thường có xu hướng sống khép mình, tự ti, trầm cảm, mất khả năng tự chủ trong cuộc sống, thậm chí nảy sinh ý muốn tự tử hoặc có thể lặp lại những hành vi bị bạo hành với người khác, dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo.
Về phía gia đình, việc trẻ trở thành nạn nhân của bạo hành sẽ khiến đời sống gia đình xáo trộn, tốn kém thời gian và tiền bạc để chữa trị cũng như can thiệp tâm lý, giúp đỡ trẻ hòa nhập cộng đồng. Ðối với xã hội, trong bối cảnh nước ta là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới, nạn bạo hành trẻ em sẽ đặt ra những nguy cơ đối với chất lượng, phẩm chất của nguồn nhân lực trong tương lai.
Nhận thức rõ những nguy cơ trên, hiện nay nhiều quốc gia coi "bạo hành trẻ em" là trọng tội, thậm chí người biết về tình trạng bạo hành trẻ em mà không trình báo tới cơ quan chức năng cũng sẽ bị phạt. Trong số đó, Thụy Ðiển được coi là quốc gia đi đầu thiết lập hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em. Từ năm 1966, quốc gia này đã ban hành đạo luật cấm bạo hành trẻ em trong gia đình (sớm nhất thế giới).
Còn tại Pháp, năm 2019, Quốc hội thông qua một luật cấm triệt để mọi trận đòn hay những hình thức bạo lực khác nhằm mục đích giáo dục trẻ em. Ở Mỹ, việc đánh đập trẻ em, dù chỉ một cái tát cũng đều là phạm pháp. Tại Anh, đầu năm 2022, Chính phủ đã thông báo tăng mức phạt với tội danh bạo hành trẻ em, bất cứ ai gây ra hoặc góp phần gây ra cái chết của một đứa trẻ họ chăm sóc, sẽ phải đối mặt với án tù chung thân-thay vì mức án phạt tối đa 14 năm như trước đây.
Tại Việt Nam, Luật Trẻ em 2016 xác định: "Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển" và "Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt". Ðến nay cơ sở pháp lý về quyền trẻ em trong hệ thống pháp luật nước ta đã được bảo đảm một cách khá toàn diện. Tuy nhiên việc thực hiện các quy định đó trong đời sống chưa đạt kết quả như mong muốn. Thời gian tới để góp phần ngăn chặn, giảm nạn bạo hành trẻ em, cần sự vào cuộc quyết liệt hơn nữa của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng của toàn dân với những nhóm giải pháp toàn diện, thiết thực.
Theo đó, nhóm giải pháp thứ nhất là hoàn thiện các quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Cần triển khai và quy định chi tiết các biện pháp bảo vệ trẻ em ở các cấp độ hỗ trợ, phòng ngừa và can thiệp nhằm tạo ra một lộ trình chung, tổng quát để các cấp chính quyền địa phương có thể triển khai thực hiện hiệu quả thay thế cho một số chính sách không phù hợp.
Nhóm giải pháp thứ hai là về cơ chế quản lý, tiếp nhận, phối hợp, giải quyết, xử lý. Cần ban hành những hướng dẫn cụ thể về cơ chế phối hợp giữa cơ quan, tổ chức, đơn vị, đoàn thể xã hội khi phát hiện các trường hợp trẻ em nghi ngờ bị bạo hành để các cấp, ngành, địa phương tiếp nhận, triển khai các biện pháp đồng bộ, nhanh chóng và kịp thời.
Tăng cường cơ chế giám sát việc thực thi pháp luật và bố trí nhân lực, ngân sách thực hiện pháp luật bảo vệ quyền trẻ em ở các cấp chính quyền, các tổ chức và cá nhân liên quan. Quy định cụ thể trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan quản lý và người đứng đầu cơ quan quản lý trong việc cấp phép, quản lý các cơ sở giáo dục tư thục. Ðối với các trẻ đang có nguy cơ hoặc đã bị bạo hành, các biện pháp trợ giúp cần được thực hiện một cách đa dạng, linh hoạt, quan tâm chăm sóc y tế, trị liệu tâm lý, giám sát, bảo đảm sự an toàn của trẻ em, bố trí người chăm sóc, tạo mọi điều kiện thuận lợi để trẻ em hòa nhập cộng đồng.
Nhóm giải pháp thứ ba là về tuyên truyền, giáo dục: Xác định công tác phòng ngừa là giải pháp cơ bản nhất, theo đó việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, vận động toàn thể xã hội thực thi quyền trẻ em cần duy trì thường xuyên liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận để phát huy hiệu quả trên thực tế. Ðể làm tốt công tác này cần có sự chung tay, phối hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, đoàn thể liên quan, đặc biệt là trong nhà trường và gia đình, cần tạo một môi trường sinh sống và học tập lành mạnh, chú trọng giáo dục giới tính, kỹ năng phòng ngừa bạo hành. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động trong công tác phòng, chống bạo hành trẻ em ở cơ sở giáo dục. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, phát hiện, lên án các vụ việc xâm hại quyền trẻ em.
Trước tình trạng đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - trong đó nhấn mạnh yếu tố tự thân trong rèn luyện nhân cách, gắn với những hoạt động thực tiễn, thực hiện tốt vai trò, bổn phận của mỗi cá nhân với gia đình, tập thể và xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự cường tự lập. Ý thức được đầy đủ lời dặn của Người, mỗi cá nhân cũng như cả cộng đồng cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, bổn phận chăm lo, bảo vệ trẻ em. Bất cứ một hành vi nào gây thương tổn và xâm hại tới quyền trẻ em cần phải bị nghiêm trị.