Bản Khe Nghè có hơn 70 hộ, chủ yếu là người Cao Lan. Những năm qua, bà con trong bản đã bảo tồn được nhiều nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có nghề dệt thổ cẩm và làm giấy dó. Bà Trạc Thị Ngọn (80 tuổi) cùng con trai là Dương Văn Quang là một trong số ít người ở Khe Nghè còn theo đuổi đam mê làm giấy dó. Bà Ngọn cho biết, xưa kia, giấy dó được sử dụng phổ biến để lưu giữ chữ viết, tranh vẽ, tranh thờ, in dập các văn tự cổ, ghi chép gia phả của các dòng họ, gia đình.
Ngoài ra, đối với một số đồng bào DTTS, giấy dó được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống hoặc dịp tết, ma chay, cưới hỏi... Loại giấy này có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc dòn gẫy, ẩm nát. Ở Việt Nam có nhiều nơi làm giấy dó, nhưng mỗi nơi có những kỹ thuật, bí quyết riêng. Điểm khác biệt trong kỹ thuật làm giấy dó của người Cao Lan là họ không seo giấy trong bể seo mà đồ bột giấy lên khuôn tráng có căng lớp vải để thoát nước. Khuôn tráng giấy dó được dựng nghiêng để phơi cho đến khi tách được tờ giấy ra...
Theo anh Dương Văn Quang (con trai bà Ngọn), nguyên liệu chính để làm ra sản phẩm giấy dó gồm hai thứ: Cây vợt pạ và dây hau pau (cây dưỡng). Hai loại cây và dây này đều mọc tự nhiên trên những ngọn núi, khu rừng cao, người Cao Lan phải cất công đi tìm kiếm. Trong đó, hau pau được dùng để làm thành bột giấy, còn vạt pạ được ngâm để lấy nước, tạo thành chất hồ của giấy. Theo quy trình của bà con thì hau pau được làm sạch vỏ, ngâm với nước vôi trong và ninh trong nước hòa tro bếp. Sau đó, tiếp tục làm sạch tro bám trên vỏ cây. Đây là công đoạn mất nhiều thời gian nhất, đòi hỏi sự tỉ mỉ để tạo được độ sáng trắng của giấy.
Tiếp đó, hau pau sau khi đã ninh nhừ được đem đi giã hoặc đập dập. Đối với cây vợt pạ phải tách lấy vỏ, cạo sạch lớp vỏ lụa ngoài màu nâu, bó thành cuộn rồi ngâm vào chậu nước sạch một đêm. Sáng dậy, vớt mớ vỏ ra là được chậu keo trong vắt, tiếp đó đổ bột giấy vào, quấy đều là thành hồ để tráng giấy. Công đoạn cuối cùng là đem phần vỏ được đập nát xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh. Trong quá trình khuấy trộn cùng nước ngâm vạt pạ để giấy khi vào khung sẽ không bị dính.
Khung làm giấy dó do đồng bào Cao Lan tự sáng chế. Khung được ghép vuông vắn bằng 4 thanh gỗ, ở giữa căng vải màn hay vải xô, độ dày mỏng của vải căng quyết định độ dày, mỏng của giấy dó. Khâu cuối cùng là tráng giấy, đây là khâu khó vì đòi hỏi người tráng phải có kinh nghiệm, tráng đều trên khung vải đóng sẵn. Đồng bào dùng gáo múc bột giấy dàn trên mặt vải rồi cầm khung lắc đi lắc lại cho thật đều. Ở khâu này, theo kinh nghiệm của anh Quang, để có tờ giấy dó đạt chất lượng như ý thì lúc tráng giấy phải thật đều, thật phẳng, nếu không tờ giấy sẽ bị chỗ mỏng, chỗ dày. Khi bột giấy đã dàn đều thì dựng khung nghiêng, tìm nơi sạch sẽ, thoáng đãng, nhiều nắng gió để phơi giấy cho khô.
Từng nhiều năm làm giấy dó nhưng hai mẹ con bà Trạc Thị Ngọn vẫn luôn trăn trở bởi hiện tại, còn rất ít người biết làm giấy dó truyền thống. Sản phẩm làm ra giờ chủ yếu chỉ để sử dụng trong gia đình, dòng họ vào những dịp lễ, tết. Việc bán giấy dó cho đồng bào cũng có, nhưng không đáng kể. Ngành Văn hóa địa phương đã từng có một số chương trình hỗ trợ bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm giấy dó ở Khe Nghè. Bản thân anh Quang đã nhiều lần được mời tham gia trình diễn làm giấy dó tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, song vẫn chưa tìm được người trẻ tâm huyết để truyền nghề. Nguy cơ thất truyền nghề làm giấy dó chỉ là thời gian không xa.