Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Nghề chăn bò trên đất Tây Nguyên

Tiêu Dao - Đinh Dũng - 10:45, 27/05/2020

Ở Tây Nguyên có một vùng đất của những người mưu sinh bằng nghề chăn bò, giống như những “cao bồi” ở miền viễn tây hoang dã của nước Mỹ ngày trước. Những con người ấy chân chất và khoáng đạt như nắng, như gió của miền thảo nguyên này.

Nhiều người tranh thủ lùa bò xuống hồ để tắm mát và uống nước
Nhiều người tranh thủ lùa bò xuống hồ để tắm mát và uống nước

Trên những sườn đồi du mục

Thời điểm này đang là cuối mùa khô ở Tây Nguyên. Những cơn gió không còn mang cái nóng khô rát, thay vào đó đã có chút hơi ẩm thổi thoang thoảng trên lưng đèo Chư Sê thuộc xã H’Bông, huyện Chư Sê (Gia Lai). Từng đàn bò lớn chậm rãi gặm cỏ trên sườn đồi, làm tung lên những đá bụi nhỏ trong nắng chiều giữa bầu trời trong vắt.

Rơ Châm Lích tựa lưng vào một bọng cây lớn, tha thẩn nhìn đàn bò ung dung gặm cỏ. Thi thoảng vút lên không trung là tiếng hát khỏe mãnh liệt và khoáng đạt của Lích. Chàng chăn bò này đã ở tuổi gần 40, đã có vợ con và thâm niên hơn 10 năm chăn bò. Đàn bò hơn 50 con mà Lích và vợ đang chăn là của một trang trại trong vùng. Tất nhiên là Lích đi chăn thuê. Chứ nếu có chừng ấy bò, Lích đã chẳng phải nhọc công dãi dầu như vậy.

Không chỉ vợ chồng Lích, mà nghề chính của mấy chục hộ dân người Jrai ở H’Bông này cũng là chăn bò. Xã có 12 thôn thì có tới 11 thôn là người Jrai và Ba Na sinh sống. Trong các buôn làng, người Jrai và Ba Na làm nghề chăn bò thuê để kiếm sống (những trang trại chăn nuôi bò lớn được thành lập ở đây bắt đầu từ năm 2004).

Nghề chăn bò nơi này được trả công rất đa dạng. Như vợ chồng Lích, hay vợ chồng Ksor Khăm, vợ chồng Siu Nét và nhiều người nữa thì nhận công bằng bê con. Còn những người khác thì nhận công bằng tiền hằng tháng. Người chăn bò nếu nhận tiền công tháng sẽ rơi vào khoảng 4 - 7 triệu đồng tùy số lượng bò chăn được. Mỗi hộ nhận 10 - 20 con, nhà đông người, có thể nhận 60 - 70 con bò. Chỉ cần 1 lao động chính và 1 - 2 lao động phụ ở các gia đình chăn dắt là có thể bảo đảm được công việc. 

Như Lích nhận chăn 10 con bò, nếu sau 1 năm, bò mẹ đẻ được 10 con thì Lích sẽ được 1 con và có thể nuôi chung đàn với bò của chủ. Ở vùng này, nhiều người cũng nhận công chăn bò như Lích. Cứ thế, sau 10 năm chăn bò, đàn bò của Lích giờ cũng được gần chục con. Đó là cả một gia tài với những người chăn bò như Lích.

Cạnh nhà Lích có nhà anh Tùng, từ Quảng Ngãi lên đây lập nghiệp cũng bằng nghề chăn bò. “Không đủ tiền mua đất sản xuất nên cả nhà tôi đều làm nghề nuôi bò thuê. Tiếng là vất vả nhưng vẫn sướng hơn ở quê. Nhận nuôi hơn 70 con bò thịt của chủ trang trại, nhận tiền công mỗi tháng vài triệu thôi, gọi là đủ sống. Đến tuổi bán, nếu bò béo, được giá chủ trang trại thưởng thêm cho công nuôi, chăm sóc”, anh Tùng chia sẻ.

Dàn đồng ca của thảo nguyên

Mấy năm trước, khi chưa chia tách, huyện Chư Sê (nay là Chư Sê và Chư Pưh) thì vùng đất này là thủ phủ của các chủ trang trại, có lúc lên đến hơn 800 trang trại, chiếm 40% tổng số lượng trang trại toàn tỉnh Gia Lai. Trong số đó, có những trang trại nuôi bò lên tới hàng trăm con. Có những trang trại lớn như trại bò của ông Nguyễn Đình Phúc, lúc cao điểm lên đến 4.000 con, là trang trại bò tư nhân lớn nhất toàn quốc thời điểm cách đây hơn 10 năm.

Chiều chiều, những chú bò phủ rợp những sườn đồi. Chúng tấu lên những khúc nhạc bằng tiếng kêu giống loài đặc trưng, hòa cùng tiếng mõ lốc cốc, tiếng hát của những “cao bồi” nhiều lứa tuổi, nổi lên trong tiếng gió vi vu dìu dặt. Tất cả như một dàn đồng ca du mục miền thảo nguyên đầy da diết.

Chăn bò tưởng chừng thảnh thơi và dễ, nhưng thực sự là không hẳn vậy. Như Lích, trong một buổi chiều lơ đãng vì cơn mưa, một con bò lớn bị lạc. Đến tối muộn mà Lích chẳng thấy bò đâu nên lo lắm. Nếu mất bò, Lích sẽ phải đền. Có khi mất cả công việc vì chủ bò sẽ không cho nuôi nữa. Cũng may, đến nửa đêm thì Lích cũng tìm được con bò đang nằm trú trong một lùm cây cách nhà hơn 3km. Sau trận hú hồn ấy, Lích và vợ chăm bò kỹ lắm. 

Lích bộc bạch, khi nhận chăn bò, chủ và người chăn phải làm hợp đồng cam kết rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm. Nếu bò bị chết có nguyên nhân rõ ràng thì chủ bò sẽ chịu, ngược lại thì người chăn phải đền bò hoặc tiền. 

Cứ thế, nhiều năm trôi qua trong xóm “cao bồi” ấy và lân cận quanh đó là những ngôi làng Jrai và Ba Na cùng chan hòa làm nghề chăn bò trên những sườn đồi đầy cỏ. Chiều chiều, những chú bò phủ rợp những sườn đồi. Chúng tấu lên những khúc nhạc bằng tiếng kêu giống loài đặc trưng, hòa cùng tiếng mõ lốc cốc, tiếng hát của những “cao bồi” nhiều lứa tuổi, nổi lên trong tiếng gió vi vu dìu dặt. Tất cả như một dàn đồng ca du mục miền thảo nguyên đầy da diết. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp với sức sống kỳ vĩ mà ít người thấy được.

Tin cùng chuyên mục
Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Thách thức nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây Nghệ An: Tăng cường truyền thông về chăm sóc sức khỏe cho người dân (Bài 2)

Hàng loạt tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, trong đó nổi cộm là địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế..., đã tạo "đất sống" cho những hủ tục, tập quán lạc hậu tồn tại. Đây chính là những thách thức lớn làm ảnh hưởng đến quá trình nâng cao chất lượng dân số vùng miền Tây xứ Nghệ. Thực tế, đã có nhiều giải pháp khắc phục hạn chế được đưa ra, trong đó là việc tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm thay đổi tư duy; đồng thời lồng ghép cung cấp các dịch vụ khám sức khỏe, sàng lọc một số bệnh trong Nhân dân.