Phát biểu ý kiến khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng được tham dự Hội nghị; đánh giá chủ đề Hội nghị cũng là mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta; nhấn mạnh, cách đây hơn 3 tháng, chúng ta đã tổ chức Hội nghị Thường trực Chính phủ gặp mặt đầu năm mới với các doanh nghiệp nhà nước, qua đó khẳng định sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước nắm nguồn lực lớn, đóng góp vào ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho người lao động, an sinh xã hội, tiên phong đi đầu trong đổi mới sáng tạo, đổi mới, đầu tư các dự án trọng điểm ở các địa phương, các vùng kinh tế của cả nước.
Vừa qua, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5, đánh giá tình hình kinh tế-xã hội 5 tháng đầu năm tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, đạt kết quả tốt hơn cùng kỳ năm 2023. Trong thành tựu chung đó rất đáng khích lệ, có sự nỗ lực, đồng hành, đóng góp hết sức quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân nói chung, nhất là doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
Thủ tướng nêu rõ, trong thời kỳ khó khăn của đại dịch Covid-19, cũng như trong giai đoạn phục hồi hậu đại dịch từ năm 2023 đến nay, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đóng vai trò quan trọng trong thực hiện sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm các cân đối lớn, cung cầu, điều tiết hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, phục hồi kinh tế-xã hội.
Thủ tướng nêu rõ, Việt Nam xác định 3 trụ cột, trong đó có thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó, kinh tế nhà nước là chủ đạo, có thể can thiệp khi tình hình không bình thường. Điều này càng khẳng định, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Vì vậy, chúng ta vẫn phải xây dựng các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Các tập đoàn năng lượng như EVN, PVN, TKV cơ bản làm nòng cốt trong bảo đảm an ninh năng lượng, điều tiết trong lĩnh vực điện, xăng dầu… Nếu chúng ta không có công cụ này thì khó điều tiết. Các nền kinh tế lớn cũng chịu tác động lớn về giá cả năng lượng do kinh tế thị trường vì kinh tế thị trường cũng có mặt tích cực và tiêu cực. Trong khi đó, Việt Nam vẫn cơ bản kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Các tập đoàn viễn thông như Viettel, VinaPhone, MobiPhone duy trì cung cấp dịch vụ viễn thông, điều chỉnh giảm giá cước viễn thông, hỗ trợ bảo đảm khả năng tiếp cận viễn thông của người dân. Trong công cuộc chuyển đổi số hiện nay thì các tập đoàn viễn thông này có vai trò hết sức quan trọng.
Các tổng công ty lương thực như Vinafood 1 và 2 đóng vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực trong nước, nhất là hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho người dân trong đại dịch Covid-19. Nền kinh tế không thể thiếu lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện, nước. Những lĩnh vực này có các doanh nghiệp nhà nước vừa tham gia kinh doanh, vừa tham gia bình ổn giá cả các mặt hàng thiết yếu, bảo đảm công bằng xã hội, cũng như còn nhiều các doanh nghiệp nhà nước đang sản xuất, kinh doanh trên các lĩnh vực khác, bảo đảm đời sống Nhân dân. Các ngân hàng thương mại nhà nước cũng có vai trò quan trọng như vậy…. Các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần bảo đảm ổn định đời sống Nhân dân.
Bên cạnh thuận lợi đó, chúng ta cũng đang phải đối mặt nhiều khó khăn, thách thức lớn như áp lực lớn về lạm phát, giá điện, xăng dầu, lương thực, thực phẩm có thể tiếp tục có thể tăng vì biến động nguồn cung trên thế giới; nhu cầu sử dụng điện, vận tải hành khách trong nước tăng khi đang mùa cao điểm nắng nóng và dịp hè.
Thủ tướng nêu thí dụ, cùng thời điểm này năm ngoái thì bị thiếu điện cục bộ nhưng năm nay, dù nhu cầu tiêu thụ điện dịp này tăng hơn 12% so cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn bảo đảm cung ứng đủ điện cho sản xuất kinh doanh và đời sống sinh hoạt của Nhân dân.
Thủ tướng cũng nêu rõ, thị trường tiền tệ còn tiềm ẩn rủi ro, tiếp cận vốn cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn khó khăn, tỷ lệ nợ xấu còn ở mức cao, quản lý thị trường vàng còn bất cập, sản xuất công nghiệp còn chậm, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài, nặng nề hơn năm trước.
Nhấn mạnh tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp với sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột kéo dài, đứt gãy các chuỗi cung ứng, tác động kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng trong nước…, Thủ tướng nêu rõ, dân tộc ta càng đối mặt với khó khăn, phức tạp thì càng trỗi dậy, càng áp lực thì càng nỗ lực; dù nhiều thử thách, cam go nhưng đây cũng là quá trình thử thách đội ngũ cán bộ. Mỗi người, mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị đạt kết quả cao thì cả nước đạt kết quả cao và ngược lại. Nếu chúng ta đoàn kết, thống nhất, cùng nhau chia sẻ thì tạo nên sức mạnh của hệ thống. Trong lúc này, cần thực hiện tinh thần "chỉ bàn làm, không bàn lùi", "không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm", đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết.
Tại Hội nghị này, chúng ta đánh giá tình hình khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi, nhưng vẫn phải tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, hoá giải các khó khăn, thách thức.
Thủ tướng mong muốn thống nhất về nhận thức những vấn đề khó khăn, thuận lợi, từ đó thể hiện sự quyết tâm, đoàn kết, tìm giải pháp phù hợp, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, là tiền đề thực hiện các mục tiêu mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra cho nhiệm kỳ này. Đây là một trong những điều Chính phủ muốn gửi gắm, muốn chia sẻ các doanh nghiệp nhà nước với tinh thần “cùng nghĩ thật, cùng nói thật, cùng làm thật, cùng có kết quả thật, Nhân dân hưởng thụ thật”. Doanh nghiệp làm tốt các ngành nghề, sứ mệnh được giao sẽ góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc như chúng ta đã cùng nhau vượt qua đại dịch Covid-19.
Thủ tướng mong các doanh nghiệp nhà nước hiến kế, đưa ra nhiệm vụ giải pháp đạt 2 mục tiêu quan trọng vừa kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn.
* Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2023, ước tính kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 605 doanh nghiệp nhà nước gửi báo cáo (chiếm 90% trong tổng số 676 doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc) cơ bản hoàn thành vượt kế hoạch.
Cụ thể: tổng doanh thu của các doanh nghiệp nhà nước năm 2023 là 1.652.442 tỷ đồng, đạt 104% kế hoạch được phê duyệt. Trong đó, khối các doanh nghiệp nhà nước thuộc Trung ương là 1.462.725 tỷ đồng, khối doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương là 189.717 tỷ đồng. Riêng 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Tập đoàn Viettel có doanh thu (của công ty mẹ, chưa tính hợp nhất) đạt 1.304.757 tỷ đồng, chiếm 79% tổng doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước.
Về chỉ tiêu lợi nhuận: tổng lãi phát sinh trước thuế của các doanh nghiệp nhà nước tính đến cuối năm 2023 là 125.847 tỷ đồng, đạt 108% so với kế hoạch được phê duyệt. Trong đó, khối các doanh nghiệp nhà nước thuộc Trung ương là 101.909 tỷ đồng, khối doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương là 23.938 tỷ đồng. Một số doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về lợi nhuận cao như: Tập đoàn Viettel, Tổng công ty SCIC (đạt 255% so với kế hoạch).
Về đóng góp ngân sách nhà nước: tổng số tiền thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước của khu vực doanh nghiệp nhà nước là 166.218 tỷ đồng, đạt 108% so với kế hoạch phê duyệt.
Trong đó, khối các doanh nghiệp nhà nước thuộc Trung ương là 115.764 tỷ đồng, khối doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương là 50.454 tỷ đồng. Ngoài ra, nguồn thu từ cổ tức, lợi nhuận sau thuế phát sinh phải nộp ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp nhà nước năm 2023 là 60.275 tỷ đồng, đạt 110% so với kế hoạch phê duyệt. Trong đó, khối các doanh nghiệp nhà nước thuộc Trung ương là 46.306 tỷ đồng, khối doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương là 13.969 tỷ đồng.
Đối với 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, có 16/19 tập đoàn, tổng công ty hoàn thành và vượt kế hoạch về nộp ngân sách nhà nước trong năm 2023.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, về cơ bản các doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tập trung phát triển những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh chính, có thế mạnh để triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển đã được phê duyệt. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được nhiều kết quả khả quan, bảo đảm được đời sống, thu nhập của người lao động.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, doanh thu hợp nhất của 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ước đạt 823.217,18 tỷ đồng, bằng 61,63% kế hoạch năm và bằng 112% so với cùng kỳ; Lợi nhuận trước thuế ước đạt 28.294,65 tỷ đồng, bằng 47,28% kế hoạch năm và bằng 133% so với cùng kỳ; giá trị nộp ngân sách nhà nước ước đạt 70.784,50 tỷ đồng, bằng 61,77% kế hoạch năm và bằng 91% so với cùng kỳ. Tập đoàn Viettel là doanh nghiệp có doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách lớn nhất trong số doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng trong 5 tháng đầu năm 2024, trong đó, doanh thu hợp nhất đạt 74.933 tỷ đồng; lợi nhuận sau thuế đạt 19.723 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước 22.387 tỷ đồng.
Kết quả sản xuất kinh doanh của nhóm doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con: các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn này chủ yếu hoạt động trong các ngành ngành, lĩnh vực độc quyền, công ích kết hợp mục tiêu sản xuất kinh doanh (chiếm khoảng 16% tổng số doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc): năng lượng, viễn thông, kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, phát triển kinh tế-xã hội địa phương, nông nghiệp và công nghiệp... Khối công ty mẹ Tập đoàn - Tổng công ty, công ty mẹ - công ty con này nắm giữ trên 90% tổng tài sản, tổng doanh thu và lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc.
Tại thời điểm đầu năm 2023, tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc đạt 3.821.459 tỷ đồng, tăng 4% so với đầu năm 2022. Trong đó riêng khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con có tổng tài sản là 3.511.993 tỷ đồng, chiếm 92% tổng tài sản của các doanh nghiệp nhà nước. Tổng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước đạt 1.807.999 tỷ đồng. Trong đó, khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con là 1.621.006 tỷ đồng, tăng 3% so với thời điểm đầu năm 2022, chiếm 90% tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước.
Tổng hợp một số chỉ tiêu tài chính hợp nhất của 60 công ty mẹ - công ty con trong giai đoạn 2020-2023 cho thấy một số kết quả đáng ghi nhận về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước như sau: về tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và đóng góp ngân sách nhà nước: Về tổng doanh thu: trong giai đoạn 2020-2023, tổng doanh thu của doanh nghiệp nhà nước có xu hướng tăng mạnh từ 1.618.382 tỷ đồng năm 2020 tăng lên 1.788.089 tỷ đồng năm 2021, tăng lên 2.304.998 tỷ đồng năm 2023.
Về lợi nhuận trước thuế: trong giai đoạn này, tổng lợi nhuận của 60 doanh nghiệp nhà nước có xu hướng tăng nhẹ trong giai đoạn 2020-2023 (tăng 10.234 tỷ đồng trong giai đoạn 2020-2023), từ 127.912 tỷ đồng năm 2020 tăng lên 172.575 tỷ đồng năm 2021, 179.200 tỷ đồng năm 2022 và ghi nhận giảm nhẹ còn 137.146 tỷ đồng năm 2023. Một số tập đoàn, tổng công ty có mức lợi nhuận cao trong giai đoạn gồm: Tập đoàn Viettel, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV)...
Về thuế, cổ tức, lợi nhuận và các khoản đã nộp ngân sách nhà nước: có xu hướng tăng trong giai đoạn 2020-2023 (tăng 167.155 tỷ đồng trong giai đoạn 2020-2023), từ 307.614 tỷ đồng năm 2020 tăng lên 318.741 tỷ đồng năm 2021, 329.131 tỷ đồng năm 2022 và đạt 474.769 tỷ đồng năm 2023. Trong giai đoạn này, một số tập đoàn, tổng công ty phát sinh lỗ do ảnh hưởng của Covid-19 và thực hiện nhiệm vụ chính trị như Tổng công ty Hàng không Việt Nam, EVN…