Cổ phần hóa đạt kết quả tích cực, nhiều thương vụ thoái vốn đạt hiệu quả cao
Trình bày báo cáo của Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp, ông Nguyễn Hồng Long, Phó Trưởng Ban chuyên trách, Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cho biết, trong giai đoạn 2016-2020 đã cổ phần hóa 180 doanh nghiệp với tổng giá trị doanh nghiệp là 489.690 tỷ đồng, giá trị vốn nhà nước là 233.792 tỷ đồng.
Trong đó đã cổ phần hóa 39/128 doanh nghiệp thuộc danh mục cổ phần hóa theo Quyết định số 26/219/QĐ-TTg, đạt 30% kế hoạch; số doanh nghiệp chưa hoàn thành cổ phần hóa theo kế hoạch là 89 doanh nghiệp.
Năm 2021 đã cổ phần hóa 4 doanh nghiệp với tổng giá trị doanh nghiệp 333 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 196 tỷ đồng, gồm 3 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Lương thực Miền Bắc và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam; và Công ty TNHH MTV đầu tư phát triển chè Nghệ An (không thuộc danh mục doanh nghiệp cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
Trong 9 tháng đầu năm 2022 có 1 doanh nghiệp cổ phần hóa là Công ty TNHH MTV Phà An Giang với tổng giá trị doanh nghiệp là 309 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là 278 tỷ đồng.
Về thoái vốn nhà nước, trong năm 2021 đã thoái vốn tại 18 doanh nghiệp với giá trị 1665 tỷ đồng, thu về 4402 tỷ đồng. Trong tháng 9 tháng năm 2022 ghi nhận các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước thoái vốn tại doanh nghiệp với giá trị 48,3 tỷ đồng, thu về 109,1 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2022 ghi nhận các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước thoái vốn tại doanh nghiệp với giá trị 466 tỷ đồng, thu về 2289,5 tỷ đồng.
Về tình hình hoạt động của doanh nghiệp có vốn nhà nước, báo cáo cho biết, đến hết năm 2021 có 826 doanh nghiệp có vốn nhà nước, trong đó có 476 doanh nghiệp do nhà nước năm 100% vốn điều lệ; 197 doanh nghiệp nhà nước năm trên 50% vốn điều lệ; 153 doanh nghiệp nhà nước năm từ 50% vốn điều lệ trở xuống.
Tổng tài sản là 3.749.867 tỷ đồng, tăng 2% so với 2020. Vốn chủ sở hữu là 1.795.451 tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2020. Tổng vốn nhà nước đang đầu tư tại 826 doanh nghiệp là 1.671.547 tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2020. Tổng doanh thu đạt 2.128.254 tỷ đồng, tăng 8% so với năm 2020. Lãi phát sinh trước thuế đạt 205.045 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2020. Tổng số phát sinh phải nộp ngân sách nhà nước là 323.876 tỷ đồng, tăng 6% so với năm 2020.
Về tình hình phát triển doanh nghiệp và triển khai Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, năm 2021 số doanh nghiệp thành lập mới đạt 116.839 doanh nghiệp với số vốn đăng ký thành lập mới là 1.611.109 tỷ đồng.
Từ năm 2021 đến nay, trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời ban hành và triển khai nhiều cơ chế, chính sách vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế.
Riêng từ tháng 8 đến đầu tháng 10 năm 2021, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng đã chủ trì 3 hội nghị với cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân trên cả nước, 4 hội nghị với các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021 với hàng loạt giải pháp hỗ trợ trong bối cảnh dịch COVID-19.
Đánh giá kết quả đã đạt được, báo cáo nhấn mạnh, quy mô vốn nhà nước, hiệu quả cổ phần hóa, thoái vốn đạt kết quả tích cực hơn giai đoạn 2011-2015
Giai đoạn 2016-2020, cả nước đã cổ phần hóa 180 doanh nghiệp với quy mô vốn nhà nước xác định lại tăng 23,3% so với giai đoạn 2011-2015 (189.509 tỷ đồng).
Đã thoái 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng, gấp 6,5 lần giá trị sổ sách, cao hơn so với giai đoạn 2011-2015 cả về giá trị và hiệu quả thoái vốn.
Tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn giai đoạn 2016-2020 đạt trên 220.000 tỷ đồng, gấp 2,8 lần giai đoạn 2011-2015 (78.000 tỷ đồng). Số tiền chuyển ngân sách nhà nước theo nghị quyết của quốc hội đạt 221.700/ 250.000 tỷ đồng, đạt 90% kế hoạch.
Đã cổ phần hóa, thoái vốn tại nhiều doanh nghiệp quy mô lớn, có vốn nhà nước lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng như Tập đoàn Cao su Việt Nam; các Tổng công ty: Điện lực dầu khí, Dầu Việt Nam, Lọc hóa dầu Bình Sơn, Phát điện 3, Phát điện 2, Bicamex Bình Dương, Sông Đà,…
Nhiều thương vụ thoái vốn đạt hiệu quả cao như tại: Vinamilk, Sabeco, Vinaconex, Idico,… nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung, sử dụng hiệu quả, chuyển vào ngân sách nhà nước theo đúng Nghị quyết của Quốc hội.
Về tình hình phát triển doanh nghiệp, báo cáo nhấn mạnh: Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt một số kết quả tích cực; số doanh nghiệp thành lập mới 5 năm gần đây đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động trên 1000 dân liên tục tăng. Năm 2020 đạt 8,3 doanh nghiệp/1000 dân (so với năm 2016 là 5,4; năm 2017 là 6; năm 2018 là 7,3; năm 2019 là 7,6).
Vẫn còn nhiều vướng mắc trong công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước
Tuy nhiên báo cáo cũng thẳng thắn nhìn nhận: Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn chậm so với kế hoạch đề ra. Cổ phần hóa, thoái vốn chỉ đạt 30% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho giai đoạn 2016-2020. Các doanh nghiệp chưa hoàn thành được gia hạn thời gian và tiếp tục triển khai trong năm 2021 đến nay nhưng tiến độ cũng chưa đạt yêu cầu đề ra.
Do gặp nhiều vướng mắc, một số tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn đến nay vẫn chưa hoàn thành phê duyệt phương án sử dụng đất để tiến hành các bước tiếp theo của cổ phần hóa.
Các bộ ngành, địa phương phản ánh còn gặp vướng mắc trong triển khai thực hiện một số nội dung về sắp xếp, phê duyệt phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa, xác định giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu, truyền thống, văn hóa, lịch sử, giá trị doanh nghiệp, phần vốn để cổ phần hóa, thoái vốn…
Về nguyên nhân, báo cáo cho rằng, bên cạnh các nguyên nhân khách quan như tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19 đến nguồn lực của các nhà đầu tư và việc triển khai công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp; do tình hình thị trường… thì nguyên nhân chủ quan là việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong triển khai Luật Đất đai, Luật quản lý sử dụng tài sản công chưa nghiêm túc, thường xuyên.
Nhiều doanh nghiệp chỉ đến khi cổ phần hóa mới thực hiện sắp xếp, xử lý đất đai theo quy định. Việc lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà đất chậm, gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt là các thành phố lớn, dẫn đến làm chậm quá trình cổ phần hóa.
Một số bộ ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước chưa nghiêm túc, quyết liệt trong chỉ đạo và triển khai thực hiện. Còn hiện tượng sợ sai, không dám làm, viện dẫn vào các khó khăn vướng mắc để chặm hoặc không thực hiện.
Cần tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả công tác cổ phần hóa, thoái vốn
Phát biểu tại hội nghị, đại diện Tập đoàn, Tổng công ty: Dầu khí, Điện lực, Than – Khoáng sản Việt Nam, Hóa chất, SCIC, Lương thực Miền Bắc, Ngân hàng NNPTNT; Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; UBND thành phố Hà Nội; UBND THCM; Bộ Kế hoạch và Đầu tư bày tỏ thống nhất cao với nội dung báo cáo của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp.
Đại diện các doanh nghiệp, bộ ngành, địa phương cũng làm rõ thêm các kết quả đã thực hiện được, nhấn mạnh dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ công tác cổ phần hóa đã được thực hiện nhanh, hiệu quả hơn giai đoạn trước. Bên cạnh đó, các ý kiến phân tích làm rõ thêm nguyên nhân tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trong công tác cổ phần hóa, nhất là vấn đề liên quan đến sắp xếp nhà, đất công.
Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đề nghị tiến hành tổng kết, đánh giá công tác cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước, qua đó xác định rõ các tồn tại, vướng mắc, đưa ra giải pháp khắc phục hiệu quả để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hóa trong thời gian tới.
Bám sát chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, quyết liệt thực hiện nhiệm vụ được giao
Phát biểu kết luận, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đánh giá cao ý kiến phát biểu của đại diện các tập đoàn, tổng công ty, bộ ngành, địa phương. Phó Thủ tướng đề nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp tiếp thu đầy đủ các ý kiến để hoàn thiện báo cáo tình hình cổ phần hóa, thoái vốn, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Theo Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, để triển khai sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp, chúng ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, văn bản chỉ đạo điều hành quan trọng.
Theo đó, các cơ chế, chính sách được ban hành theo hướng ngày càng chặt chẽ, công khai, minh bạch hơn, tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp, quản lý chặt chẽ nhà, đất khi cổ phần hóa, thoái vốn, hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.
Trong hoạt động điều hành, Thủ tướng, các Phó Thủ tướng đã chỉ đạo quyết liệt công tác tổ chức thực hiện; chủ trì nhiều cuộc họp, hội nghị doanh nghiệp toàn quốc; trực tiếp làm việc với các bộ ngành, địa phương cho ý kiến về xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện pháp luật;… Quá trình tổ chức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn đã có sự kế thừa, phát triển gắn với giải quyết các vướng mắc cụ thể của thực tiễn.
Các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được sắp xếp lại tinh gọn hơn, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, vừa hoạt động có hiệu quả, đóng góp quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh,….
Theo Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đánh giá, các bộ ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty đã có nhiều nỗ lực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao; công tác cổ phần hóa, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đã có tiến bộ.
Công tác thoái vốn nhà nước tuy chưa đạt yêu cầu đặt ra nhưng tổng số thu được tương đối lớn để nộp về ngân sách nhà nước. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn góp phần thúc đẩy khối doanh nghiệp tư nhân phát triển. Hình thành lực lượng doanh nghiệp của đất nước lớn mạnh dần.
Về tồn tại, vướng mắc Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho rằng, tồn tại lớn nhất là tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn chậm so với kế hoạch (mới đạt 30%). Còn nhiều vướng mắc, nhất là liên quan đến sắp xếp nhà đất, tài sản công; các quy định pháp luật còn chồng chéo hoặc không rõ; khó khăn trong xác định giá trị thương hiệu, văn hóa, lịch sử; một số doanh nghiệp còn kinh doanh thua lỗ, sắp xếp lại không thành công;…
Nguyên nhân là do cơ chế chính sách còn thiếu, chưa rõ, chưa phù hợp; việc tổ chức thực hiện chưa nghiêm, công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát chưa quyết liệt; vẫn còn tình trạng cán bộ e dè trong thực quá trình thực thi nhiệm vụ; trong xây dựng kế hoạch còn chủ quan, chưa đánh giá hết tình hình;…
Về nhiệm vụ sắp tới, Phó Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước, phải tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc, có kết quả Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII, các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhằm tạo sự nhất trí cao và có hành động quyết liệt, cụ thể trong đổi mới và phát triển doanh nghiệp.
Tiếp tục triển khai có kết quả các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý đảm bảo chặt chẽ, khả thi, đồng thời thúc đẩy công tác sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân. Các Bộ ngành theo nhiệm vụ được giao tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản tháo gỡ vướng mắc theo thẩm quyền; trường hợp vượt quá thẩm quyền thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Tiến hành tổng kết về sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp. Trong tổng kết, đánh giá phải xác định rõ mặt được, chưa được, nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc, đề xuất các giải pháp phù hợp, hiệu quả.
"Đây là việc khó, phức tạp, liên quan đến nhiều bộ ngành địa phương, được dư luận rất quan tâm, nhưng việc thực hiện thời gian qua vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Do vậy cần phải tổng kết rút kinh nghiệm, qua đó làm rõ những khó khăn, vướng mắc để đề ra các giải pháp thực thi hiệu quả trong thời gian tới", Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Phó Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm hoàn thiện Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2025 để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Các bộ, ngành sớm hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền dự thảo các văn bản đã được phân công theo kế hoạch; đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp,.../.