Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng Đồng bào DTTS và Miền núi

Làm giàu từ trồng na dai

Thanh Nga - 06:25, 08/03/2025

Trải qua bao vất vả, khó khăn, nhọc nhằn, 10 năm nay, vợ chồng chị Lùng Thị Thuỷ, dân tộc Phù Lá ở thôn Cốc Sâm 2, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai vẫn gắn bó với nghề trồng na. Không phụ lòng người, mỗi mùa vụ, na lại mang đến cho gia đình chị Thủy những trái ngọt.

Chị Lùng Thị Thuỷ giới thiệu sản phẩm nông sản na dai.
Chị Lùng Thị Thuỷ giới thiệu sản phẩm nông sản na dai

Ngày trước, thôn Cốc Sâm 2, xã Phong Niên chỉ là vùng đất đá khô cằn, nhưng với sự cần cù, chịu khó, quyết không khuất phục trước khó khăn, hai vợ chồng chị Thủy đã biến vùng đất hoang hóa trở nên trù phú, với hơn 1 nghìn gốc na. Dưới bàn tay chăm bón của chị Thủy, na phát triển tốt.

10 năm qua, gia đình chị Lùng Thị Thuỷ là một trong những hộ dân đi đầu về trồng na trái vụ trên đất đồi dốc ở đất Phong Niên. Năm nay là năm thứ 6 gia đình chị Thuỷ áp dụng biện pháp kỹ thuật để cây na ra quả trái vụ.

Chị Thuỷ cho biết: Sau thời gian miệt mài tìm hiểu, nghiên cứu, tham quan những mô hình ở địa phương khác để học tập khoa học kỹ thuật, công nghệ chăm sóc, tỉa cành, thụ phấn, chị đã tạo ra giống na cho quả trái vụ. Theo đó, thịt na dai, có vị ngọt, thơm ngon đặc trưng, được nhiều người biết đến, không phải nơi nào cũng có được. Hiện nay, toàn bộ số na của gia đình chị Thuỷ được thương lái vào tận vườn thu mua.

Theo chị Thuỷ, trồng na không cần kỹ thuật phức tạp, nhưng đòi hỏi công chăm sóc, có những thời điểm phải chăm sóc liên tục. Ngoài bổ sung phân bón, nước tưới, cần cắt, tỉa cành thường xuyên để na cho trái to, đậu quả đúng thời điểm. Sau khi đậu quả, cắt loại bỏ quả lép, méo mó. Khi quả na to, đường kính khoảng 4 - 5cm thì tiến hành bọc quả bằng túi lưới để phòng giòi (ruồi) đục quả và các loài côn trùng chích, hút.

Chị Lùng Thị Thuỷ, dân tộc Phù Lá chăm sóc cây na dai
Chị Lùng Thị Thuỷ, dân tộc Phù Lá chăm sóc cây na dai

Với việc áp dụng khoa học kỹ thuật cùng kinh nghiệm lâu năm nên sản phẩm na được gia đình chị Thuỷ tạo ra ở 2 thời điểm chính vụ (từ tháng 7 đến tháng 8 dương lịch) và sản phẩm trái vụ (từ tháng 10 đến tháng 11 dương lịch).

Hiện tại gia đình chị Thuỷ có hơn 1.000 gốc na, trong đó có khoảng 600 gốc đã cho trái. Tính cả 2 vụ, đồi na của gia đình chị Thuỷ thu khoảng gần 5 tấn na/năm, với giá bán tại vườn vào thời điểm chính vụ dao động từ 50 - 65 nghìn đồng/kg tuỳ mã to, nhỏ. Còn đối với na trái vụ sẽ bán được cao hơn na chính vụ, đem lại thu nhập cho gia đình chị Thuỷ hơn 200 triệu đồng/năm.

Na của gia đình chị Lùng Thị Thuỷ là một trong những mô hình trồng na sạch theo tiêu chuẩn VietGAP đang được xã hướng tới là sản phẩm OCOP để thị trường biết tới nhiều hơn”.

Ông Hoàng Minh Đức,Chủ tịch UBND xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng

Hiện nay, sản phẩm na chính vụ và na trái vụ của gia đình chị Lùng Thị Thuỷ đã có tiếng khắp trong và ngoài xã Phong Niên. Mô hình trồng na của gia đình chị hiện tại không chỉ giúp gia đình chị phát triển kinh tế mà còn được nhiều hộ dân trong thôn, xã học hỏi làm theo.

Ông Hoàng Minh Đức, Chủ tịch UBND xã Phong Niên cho biết, cây na ở xã Phong Niên trước đây chủ yếu được trồng trong các vườn tạp, người dân chưa xác định là cây trồng chủ lực và thế mạnh tại địa phương. Khoảng gần 10 năm trở lại đây, khi bà con thấy cây này phù hợp với đất đai, khí hậu và chất lượng sản phẩm ngày càng được nhiều khách hàng biết tới và đánh giá cao, do đó diện tích cây na ở Phong Niên ngày càng được nhân rộng. Na của gia đình chị Lùng Thị Thuỷ là một trong những mô hình trồng na sạch theo tiêu chuẩn VietGAP đang được xã hướng tới là sản phẩm OCOP để thị trường biết tới nhiều hơn.

Tin cùng chuyên mục
Thay đổi “nếp nghĩ cách làm” nhờ Chương trình MTQG 1719

Thay đổi “nếp nghĩ cách làm” nhờ Chương trình MTQG 1719

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; giai đoạn 1: từ 2021 đến 2025 (Chương trình MTQG 1719) đã đi vào chặng đường cuối của giai đoạn 1. Cùng với những thay đổi to lớn về kết cấu hạ tầng, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi đã có nhiều bước chuyển đáng mừng. Đặc biệt, với trợ lực từ Chương trình MTQG 1719, đã có nhiều thay đổi trong “nếp nghĩ cách làm” của đại bộ phận đồng bào DTTS và miền núi.