Năm 1949, cũng như bao thanh niên khác, chàng trai trẻ Nguyễn Hữu Chấp rời quê hương Phú Thọ lên đường nhập ngũ. Đến năm 1952, ông tham gia chiến dịch Tây Bắc và sau đó là chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Khẩu đội trưởng cối 82 ly, Đại đội 290, Tiểu đoàn 166, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312-đơn vị nhận mệnh lệnh khai hỏa mở màn đánh cánh cửa thép Him Lam và bắt sống tướng Đờ-Cát-Tơ-ri trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nhớ lại thời điểm đánh cánh cửa thép Him Lam, ông cho biết: trận khai hỏa ấy, với quyết tâm tiêu diệt bằng được cứ điểm, tạo khí thế cho các đại đoàn khác đánh Điện Biên Phủ, khẩu đội của ông đã không quản khó khăn, vất vả ròng rã nửa tháng trời đào hào từ Tà Lèng vào đến gần đồi Him Lam. Đồng đội chia nhau từng hớp nước, nắm cơm, suốt nhiều ngày đêm phải vùi mình trong bùn đất ẩm ướt thiếu khí thở, ngột ngạt. Cuối cùng, tâm nguyện đó đã trở thành hiện thực khi khẩu đội của ông nhận lệnh khai hỏa, tác chiến cùng đồng đội vào 17 giờ, ngày 13/3/1954. Cứ điểm Him Lam bị tiêu diệt hoàn toàn đã làm nức lòng, động viên toàn quân ở mặt trận, tạo tiền đề mạnh mẽ đi đến các giai đoạn sau của chiến dịch.
Sau giải phóng Điện Biên, ông cùng đơn vị trở về đóng quân ở Vĩnh Phúc. Một thời gian sau, ông trở lại Điện Biên cùng hàng nghìn chiến sĩ thanh niên xung phong tập trung mở rộng con đường từ huyện Tuần Giáo đi Cửa khẩu Tây Trang. Ông Chấp nhớ lại: “Hồi đó, ông đi tuyển thanh niên xung phong ở nhiều tỉnh như Thái Bình, Thanh Hóa, Hưng Yên để làm đường Tuần Giáo–Tây Trang. Ngày ấy làm đường thủ công chủ yếu bằng cuốc xẻng chứ không phải máy móc như bây giờ nên rất vất vả, khó khăn. Hơn 5.400 thanh nhiên xung phong không quản ngại gian khó đã đào đất, phá đá, làm hàng trăm cây cầu, cống, mở thông hơn 100km tuyến đường từ huyện Tuần Giáo đi Tây Trang.
Riêng Him Lam ngày xưa hoang tàn, người dân chạy nạn hết, đồng ruộng bỏ hoang, cỏ mọc ngang ngực. Sau giải phóng mới bắt đầu xây dựng lại cuộc sống. “65 năm trôi qua, hơn ai hết, tôi cảm nhận rõ sự đổi thay của mảnh đất Him Lam nơi mình đang sinh sống và thấy tự hào vì đã cùng đồng đội giải phóng đem lại no ấm cho mảnh đất Mường Thanh”.
Cũng giống như ông Nguyễn Hữu Chấp, 65 năm trước, chiến sĩ Bùi Văn Tỉnh từ miền xuôi lên miền núi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi đó ông là trinh sát thuộc Trung đoàn 176, Đại đoàn 316, sau đó được điều chuyển sang Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 làm nhiệm vụ trực tiếp tham gia đánh chiếm và đặt bộc phá trên Đồi A1. Sau khi chiến dịch kết thúc, người lính trẻ thủa ấy cũng đã tình nguyện ở lại xây dựng và gắn bó với mảnh đất Điện Biên. Giờ đây khi đã ở tuổi 90, mỗi lúc nhắc về chiến dịch Điện Biên Phủ, ông vẫn không khỏi bồi hồi về sự hy sinh của các đồng đội để đổi lấy sự đổi thay của mảnh đất Điện Biên, của đất nước ta hôm nay.
Ông Tỉnh chia sẻ: “Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Điện Biên hoang tàn lắm, nhà cửa thưa thớt, không có đường nhựa, đường bê tông như bây giờ; đời sống người dân đói khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Giờ đây sau 65 năm, Điện Biên đổi thay như một kỳ tích, nhà tầng mọc lên san sát, đường sá to đẹp, sân bay quân sự của Pháp ngày xưa giờ đã mở mang thành sân bay thương mại. Đời sống người dân giờ đây đổi thay rất nhiều. Điều ấy thật sự đáng mừng biết bao”.
Nói về những đóng góp của các cựu chiến binh chống Pháp năm 1954 trong việc xây dựng phát triển Điện Biên, Thiếu tướng Lưu Trọng Lư, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Điện Biên cho biết: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, những chiến sĩ Điện Biên lúc ấy ở tuổi đời chỉ khoảng đôi mươi. Hàng trăm chiến sĩ đã ở lại xây dựng Điện Biên, điển hình là các Đại đoàn 316, Đại đoàn 312 theo chỉ thị của Bác Hồ. Giai đoạn đầu sau giải phóng vô cùng khó khăn, các chiến sĩ đã phải tiến hành rà phá bom mìn, xây dựng hạ tầng cơ sở, hệ thống đường sá; xây dựng hệ thống Đại thủy nông Nậm Rốm, tưới tiêu cho cánh đồng Mường Thanh, tiến hành khai hoang ruộng đất.
Các chiến sĩ Điện Biên đã góp phần quan trọng, to lớn cùng với Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lai Châu lúc bấy giờ xây dựng, phát triển kinh tế xã hội gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phía Tây của đất nước. Đặc biệt là, việc xây dựng các nông trường, đó là những cơ sở hạ tầng đầu tiên của Điện Biên về phát triển kinh tế, xã hội. Những nông trường đó, góp phần hết sức quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và xóa đi đói nghèo của Điện Biên.
65 năm trôi qua, những chiến sĩ Điện Biên ở lại với mảnh đất này cũng đã lần lượt ra đi, những người còn sống cũng đã ở tuổi 88-90, họ đã dành hết cả cuộc đời để đấu tranh vì độc lập dân tộc và xây dựng Điện Biên. Tinh thần chiến sĩ Điện Biên vẫn như ngọn lửa rực cháy trong tâm hồn các cựu chiến binh để truyền cho các thế hệ sau lòng yêu nước và tự hào dân tộc, cùng bảo vệ và xây dựng mảnh đất Điện Biên ngày càng giàu đẹp, xứng đáng với tầm vóc chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
VŨ LỢI