Theo đó, quý I/2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Bỉ đạt 65,7 nghìn tấn, trị giá 135,3 triệu USD, tăng 446,8% về lượng và tăng 580% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang Bỉ đạt mức 2.054 USD/tấn, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Bỉ là thị trường xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 của Việt Nam, tỷ trọng chiếm 11,3% tổng lượng và 10,4% tổng trị giá trong quý I/2022. Xuất khẩu cà phê sang thị trường Bỉ bứt phá mạnh đã tác động tích cực lên toàn ngành.
Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, quý I/2022, xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 58.700 tấn, kim ngạch 1,3 tỷ USD, tăng hơn 28% về lượng và hơn 60% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Giá cà phê xuất khẩu bình quân tăng gần 25% so với cùng kỳ là yếu tố giúp kim ngạch tăng mạnh. Đây cũng là giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê tính theo quý cao nhất từ trước đến nay của ngành hàng cà phê. Xuất khẩu cà phê Robusta sang các thị trường chính đều tăng như: Đức, Bỉ, Anh, Nhật Bản, Nga, Tây Ban Nha, Philippines.
Trong 2 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cà phê Robusta của Việt Nam sang Bỉ đạt xấp xỉ 34,5 nghìn tấn, trị giá 65 triệu USD, tăng 466,1% về lượng và tăng 577% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Trong khi đó, chủng loại cà phê Arabica có tốc độ xuất khẩu tăng tới 544,8% về lượng và tăng 890,5% về trị giá, nhưng lượng đạt mức thấp.
Theo các chuyên gia, với cam kết gỡ bỏ hàng rào thuế quan từ Hiệp định EVFTA, cơ hội mở rộng thị trường cà phê Việt Nam tại thị trường EU nói chung và thị trường Bỉ là rất tiềm năng. Trong đó, sản phẩm được hưởng lợi nhất chính là cà phê chế biến.
Để nhanh chóng tận dụng cơ hội từ Hiệp định EVFTA, doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn châu Âu; đồng thời tích cực chủ động xây dựng và phát triển quan hệ bạn hàng với các tập đoàn phân phối lớn.
Thương vụ Việt Nam tại Bỉ cũng khuyến nghị, để hoạt động xuất khẩu nông sản nói chung và cà phê nói riêng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, các địa phương cần quan tâm hơn nữa việc kêu gọi doanh nghiệp xuất khẩu liên kết chặt chẽ với các hộ gia đình, hợp tác xã sản xuất theo hướng chứng nhận Global GAP, có biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với nông hộ, hợp tác xã, doanh nghiệp đăng ký tham gia sản xuất theo hướng chứng nhận, phí chứng nhận vùng trồng.