Hình thành và phát triển
Ngày 16/2/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) và Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam. Sự ra đời của BHXH Việt Nam, là dấu mốc cải cách quan trọng của Chính phủ nhằm thu gọn đầu mối tổ chức, thực hiện chính sách BHXH cho người lao động (NLĐ) trong mọi thành phần kinh tế. Hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam gồm 3 cấp: Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.
Đến ngày 24/1/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam và ngày 6/12/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật.
Trải qua 28 năm xây dựng và phát triển, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự cố gắng nỗ lực của tập thể công chức, viên chức và NLĐ, qua nhiều thế hệ, ngành BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, từng bước khẳng định chính sách BHXH, BHYT là hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội (ASXH), góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cụ thể đến nay, diện bao phủ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng được mở rộng với sự tăng trưởng ấn tượng: Số người tham gia BHXH là 17,5 triệu người, đạt 38,08% lực lượng lao động trong độ tuổi (trong đó: Số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên hơn 16 triệu người năm 2022, tăng trên 7,5 lần; số người tham gia BHXH tự nguyện tăng từ 6.000 người năm 2008 lên gần 1,5 triệu người năm 2022, tăng 250 lần); số người tham gia BHTN tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên hơn 14,3 triệu người năm 2022, tăng gần 2,4 lần; số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên hơn 91,1 triệu người năm 2022, tăng 12,8 lần, đạt tỷ lệ bao phủ 92,04% dân số - cơ bản hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân.
Đối với công tác giải quyết, chi trả chế độ, chính sách BHXH, BHTN, BHYT được ngành BHXH Việt Nam thực hiện kịp thời, đúng quy định; đặc biệt chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ cho người tham gia căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia, đảm bảo nguyên tắc “đóng - hưởng”; phương thức hoạt động của hệ thống được đổi mới theo hướng phục vụ.
Kết quả, từ năm 1995 đến hết năm 2022, toàn Ngành đã giải quyết cho khoảng hơn 136 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; từ năm 2010 đến hết năm 2022 phối hợp giải quyết cho gần 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN; đến cuối năm 2022, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khoảng 3,3 triệu người; từ năm 2003 đến 2022, toàn Ngành đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh (KCB) BHYT cho trên 2.368 triệu lượt người.
Đáng chú ý, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và NLĐ, 3 năm qua (từ năm 2020 - 2022), ngành BHXH Việt Nam đã chủ động, tập trung huy động mọi nguồn lực trên nền nguồn dữ liệu sẵn có để triển khai kịp thời các gói hỗ trợ từ quỹ BHXH, BHTN với tổng số tiền hỗ trợ lên trên 47,2 nghìn tỷ đồng (trong đó, có 99,3% người nhận các khoản hỗ trợ qua tài khoản ngân hàng).
Cải cách và “kiến tạo” hơn
Với phương châm “Lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, trung tâm phục vụ”, ngành BHXH Việt Nam đặc biệt coi trọng và đã tập trung mọi nguồn lực, triển khai nhiều giải pháp mạnh mẽ, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính (TTHC), đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), chuyển đổi số trong tất cả các hoạt động nghiệp vụ, từng bước hiện đại hóa các hoạt động nghiệp vụ của Ngành, đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số; được các cấp các ngành cùng cộng đồng doanh nghiệp, người dân ghi nhận, đánh giá cao.
Việc chuyển đổi phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, tác phong làm việc chuyển từ hành chính sang phục vụ của Ngành đã được triển khai quyết liệt, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Kết quả, đã cắt giảm từ 263 TTHC (năm 2009) xuống chỉ còn 25 TTHC, với 100% TTHC được cung cấp DVC trực tuyến toàn trình và tích hợp trên Cổng DVC BHXH Việt Nam; Đồng thời từng bước tích hợp trên Cổng DVC quốc gia, số giờ thực hiện TTHC cho người dân và doanh nghiệp giảm từ 335 giờ/năm (năm 2015) xuống còn trên 100 giờ.
Toàn ngành BHXH Việt Nam đang có gần 30 hệ thống ứng dụng CNTT quản lý các quy trình nghiệp vụ, với hơn 20.000 tài khoản CCVC thường xuyên truy cập, khai thác và sử dụng để thực hiện các nghiệp vụ của Ngành. Theo đó, gần như tất cả các hoạt động của Ngành, cũng như các giao dịch của người tham gia, người dân, đơn vị, DN với cơ quan BHXH đã được thực hiện trên môi trường số; người dân, doanh nghiệp có thể giao dịch với cơ quan BHXH mọi lúc mọi nơi; thực hiện chi trả lương hưu, chế độ BHXH qua tài khoản ATM của hệ thống ngân hàng. Xây dựng, hoàn thiện kho cơ sở dữ liệu (CSDL) của Ngành…
Cùng với đó, Ngành đã đưa vào triển khai ứng dụng “VssID - BHXH số” trên nền tảng thiết bị di động, hiện đã có trên 28 triệu tài khoản sử dụng để quản lý, kiểm soát quá trình tham gia, thụ hưởng chính sách; thực hiện các DVC về BHXH, BHYT; sử dụng hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID và thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp để đi KCB… Tại Hội nghị ASSA lần thứ 38, BHXH Việt Nam vinh dự nhận Giải thưởng “Thực tiễn hiệu quả” tại hạng mục CNTT cho ứng dụng trên điện thoại thông minh “VssID-BHXH số”.
Trong công tác chuyển đổi số, BHXH Việt Nam là đơn vị đầu tiên đã kết nối thành công với CSDL quốc gia về dân cư ngay khi được đưa vào vận hành chính thức. Hệ thống đã xác thực trên 74,1 triệu thông tin nhân khẩu có trong CSDL quốc gia về bảo hiểm với CSDL quốc gia về dân cư. Đồng thời, Ngành đã cung cấp, chia sẻ gần 72,3 triệu lượt thông tin cho CSDL quốc gia về dân cư. Đến nay, đã có trên 12,2 nghìn cơ sở KCB tra cứu thông tin thẻ BHYT bằng CCCD gắn chíp (chiếm 95,4% tổng số cơ sở KCB BHYT), với hơn 10,5 triệu lượt tra cứu thông tin BHYT bằng CCCD gắn chip thành công phục vụ KCB BHYT.
Các hoạt động của Ngành, cũng như các giao dịch của người tham gia, người dân, đơn vị, DN với cơ quan BHXH được thực hiện trên môi trường số, đã giúp giảm tải tối đa thời gian đi lại, tiết kiệm chi phí cho đơn vị SDLĐ, NLĐ thay vì phải đến nộp hồ sơ trực tiếp tại cơ quan BHXH; giúp DN, NLĐ dễ dàng theo dõi tiến độ xử lý hồ sơ, kiểm tra đối chiếu dữ liệu tham gia, thụ hưởng chính sách, nâng cao tính minh bạch của thông tin, cũng như hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát quản lý, sử dụng, phòng chống gian lận, trục lợi các quỹ BHXH, BHYT, BHTN…
Nói về kế hoạch phát triển và mục tiêu nhiệm vụ cho chặng đường tới, ông Nguyễn Thế Mạnh, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam cho biết, để tiếp tục thực hiện thành công các kế hoạch dài hạn và bền vững hướng tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân, chúng tôi xác định các giải pháp theo định hướng “kiến tạo” phải được toàn Ngành triển khai với tinh thần chủ động, đồng bộ và toàn diện.
Theo đó, tiếp tục phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu nêu tại Nghị quyết số 28-NQ/TW Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; Nghị quyết số 125/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; các đề án, dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo các lộ trình đến năm 2025, 2030); tổ chức thực hiện hiệu quả các Luật BHXH, Luật BHYT, Luật Việc làm, Luật An toàn - Vệ sinh lao động…
Tập trung đẩy mạnh ứng dụng CNTT, chuyển đổi số, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống CSDL chuyên ngành về BHXH, BHYT, BHTN, đặc biệt là CSDL quốc gia về bảo hiểm; tích hợp, kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu với các bộ, ngành; nghiên cứu, triển khai các nền tảng, giải pháp kỹ thuật mới phục vụ chuyển đổi số của Ngành, nhất là việc xây dựng hệ thống phân tích xử lý dữ liệu lớn (Big Data), áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI). Đồng thời, tiếp tục rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ công chức viên chức có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là người đứng đầu; phát triển ngành BHXH Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp.
Mặt khác, sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội tổ chức, thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN; phát triển ngành BHXH Việt Nam phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội. Đảm bảo diện bao phủ BHXH, BHYT, BHTN tiếp tục phát triển một cách bền vững; giải quyết, chi trả đầy đủ, kịp thời các quyền lợi về BHXH, BHYT, BHTN cho người tham gia; phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.